Mục lục bài viết
1. Quá trình phát triển chung của tổ chức công đoàn Việt Nam
Do những đặc điểm chính trị, kinh tế, xã hội... công đoàn không chỉ được biết đến như một tổ chức xã hội- nghề nghiệp thuần tuý mà còn được nhìn nhận là một tổ chức chính trị-xã hội quan trọng.
Tổ chức công đoàn sơ khai ở Việt Nam được hình thành từ những năm 1919 - 1925 tại nhà máy Ba Son - Sài Gòn do đồng chí Tôn Đức Thắng sáng lập. Ngày 28/7/1929 tại số nhà 15 phố Hàng Nón, Hà Nội, Đại hội thành lập Tổng Công hội đỏ Bắc Kỳ đã được tiến hành. Đại hội đã bầu Ban Chấp hành lâm thời Tổng Công hội đỏ. Đại hội đã thông qua chương trình, điều lệ, đồng thời quyết định ra Báo Lao động và Tạp chí Công hội đỏ làm cơ quan ngôn luận và nghiên cứu lí luận của Công đoàn Việt Nam. Tháng 6/1936, Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương đã gửi thư công khai cho toàn Đảng trong đó nhấn mạnh chủ trương đưa Công hội đỏ ra hoạt động công khai, Nghiệp đoàn ái hữu được thành lập nhanh chóng trên cơ sở phong trào đấu tranh mạnh mẽ của công nhân, lao động cả nước và vào thời điểm đó Thống sứ Saten buộc phải tuyên bố cho công nhân tổ chức các hội ái hữu. Từ đó đến nay, để phù hợp với chức năng, nhiệm vụ trong từng thời kì, Công đoàn Việt Nam đã có những tên gọi khác nhau, cụ thể:
- Công hội đỏ (1929- 1935);
- Nghiệp đoàn ái hữu (1935 - 1939);
- Hội Công nhân phản đế (1939 - 1941);
- Hội Công nhân cứu quốc (1941 -1946);
- Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam (1946 - 1961);
- Tổng công đoàn Việt Nam (1961 - 1988);
- Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam (1988 - đến nay).
Trong mỗi thời kì vị trí và vai trò của công đoàn có những thay đổi, phụ thuộc vào điều kiện chính trị, xã hội cùa đất nước. Khi nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường, chức năng đại diện và bảo vệ NLĐ của công đoàn dần được đề cao do các quan hệ lao động trên thị trường đã có những biến đổi theo hướng hợp tác và cạnh tranh đều mạnh mẽ. Hoạt động của công đoàn không chỉ được biết đến như một điều kiện quan trọng nhằm thực hiện các lợi ích chính đáng và cải thiện đời sống NLĐ mà còn được xem là nhân tố quan trọng thúc đẩy thiết lập hệ thống quan hệ lao động lành mạnh và phát triển sản xuất. Công đoàn tham gia sâu hơn vào các lĩnh vực của quan hệ lao động và thị trường lao động như thương lượng hai bên, ba bên... nhằm giải quyết các công việc của quan hệ lao động cũng như làm chính sách, pháp luật về lao động. Công đoàn cũng có vai trò quan trọng trong giáo dục nâng cao trình độ nghề nghiệp, nhận thức, văn hóa trong lao động... để nâng cao chất lượng quan hệ lao động cũng như đảm bảo sức cạnh tranh của lao động Việt Nam trên thị trường lao động thế giới trong điều kiện kinh tế đổi mới và hội nhập.
Quá trình phát triển của công đoàn cũng gắn liền và phản ánh những bước phát triển của pháp luật về công đoàn, đặc biệt là từ khi nước ta bước vào nền kinh tế thị trường, vấn đề đại diện lao động được pháp luật nhắc đến ngay trong các văn bản đàu tiên của thời kì này. Có thể kể đến các văn bản: Quy chế lao động đối với các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ban hành kèm theo Nghị định số 233/HĐBT ngày 22/6/1990 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) (khoản 2 Điều 2); Quy định về thoả ước lao động tập thể, ban hành kèm theo Nghị định số 18/CP ngày 26/12/1992 của Chính phủ (khoản 1 Điều 6). Theo Quy chế này: Ban đại diện lao động có ít nhất là 3 người, do tập thể lao động trong doanh nghiệp bầu ra và được cơ quan lao động cấp tinh xác nhận. Việc bầu ban đại diện lao động được tiến hành trong các doanh nghiệp chưa cố tổ chức công đoàn. Nếu doanh nghiệp đã có tổ chức công đoàn nhưng sô lượng đoàn viên công đoàn chiếm dưới 50% số lượng NLĐ thì ban chấp hành công đoàn nơi đó phải tổ chức bầu thêm đại diện của những NLĐ chưa là đoàn viên công đoàn.
2. Hoạt động của Công đoàn Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử.
Hoạt động của Công đoàn Việt Nam những năm 1929-1935:
Ngày 3/2/1930, Đảng Cộng sản Việt Nam thành lập trên cơ sở thống nhất các tổ chức cơ sở Đảng ở Việt Nam. Trong hoạt động của mình, Đảng rất chú trọng phát triển cơ sở Công hội đỏ trong giai cấp công nhân và các tổ chức quần chúng khác. Lần lượt các tổ chức Công hội ra đời: Tổng Công hội Đỏ Vinh - Bến Thuỷ, Tổng Công hội Đà Nẵng, Tổng Công hội đỏ Nam Kỳ.
Ngày 1/5/1930, công nhân Nhà máy xe lửa Trường Thi, Cưa, Diêm Bến Thuỷ nổi dậy đấu tranh thực dân Pháp mở màn cho quá trình thành lập Xô viết công nông ở hai tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh.
Từ giữa năm 1931, Xô viết Nghệ Tĩnh bị thực dân Pháp dùng lực lượng quân sự lớn đàn áp nhưng các cơ sở Công hội đỏ còn lại vẫn tổ chức các cuộc đấu tranh kinh tế của thợ thuyền.
Đến năm 1934, cơ sở công hội được phục hồi rộng rãi hơn và các cuộc bãi công, tổng đình công lại nổ ra ở nhiều hơn trong các nhà máy, hầm mỏ.
Trải qua những thử thách lớn của cách mạng, mặc dù chưa có sự thống nhất trên quy mô cả nước nhưng Công hội đỏ đã góp phần to lớn trong việc tập hợp lực lượng thợ thuyền, đội quân chủ lực của cách mạng Việt Nam.
Công đoàn Việt Nam những năm 1936-1939:
Từ năm 1935, các tổ chức Ái hữu được thành lập chủ yếu theo nghề nghiệp làm bước trung gian tiến tới đòi tự do nghiệp đoàn đã đưa phong trào Công đoàn Việt Nam lên một bình diện mới.
Ở Nam Kỳ, các tổ chức Ái hữu, Nghiệp đoàn mang đậm tính chất ngành nghề trong các đơn vị sản xuất.
Ở Bắc Kỳ, phong trào Ái hữu, Nghiệp đoàn phát triển mạnh trong công nhân và các tầng lớp lao động, lần đầu tiên có sự liên kết các ngành nghề, các địa phương trong tổ chức và tranh đấu.
Khi Đại chiến thế giới lần thứ hai bùng nổ (tháng 9 - 1939), bọn phản động ở thuộc địa ra lệnh phải giải tán các hội Ái hữu, Nghiệp đoàn, bắt giam cán bộ công vận ở các đô thị, khu công nghiệp.
Công đoàn Việt Nam những năm 1939-1945:
Cuối năm 1940, Hội Công nhân phản đế đổi tên là Hội Công nhân cứu quốc làm nòng cốt của Việt Minh.
Ngày 15-8-1945, phát xít Nhật đầu hàng Đồng Minh. Đảng đã quyết định phát động toàn dân đứng lên Tổng khởi nghĩa giành chính quyền.
Trong suốt giai đoạn 1930-1945, dù cho tên gọi khác nhau, hình thức hoạt động lúc bí mật, lúc công khai, dù chưa có điều kiện thống nhất tổ chức trong cả nước, nhưng được sự lãnh đạo chặt chẽ của Đảng cộng sản Đông dương, Công đoàn Việt Nam thật sự là trung tâm đoàn kết của công nhân lao động Việt Nam. Từ 6.000 đoàn viên năm 1930, năm 1945 số đoàn viên đã lên tới hơn 200.000 người, đóng vai trò to lớn trong việc giành chính quyền ở các trung tâm đô thị, các khu công nghiệp trong thời kỳ Cách mạng tháng Tám năm 1945.
Hoạt động công đoàn trong những năm 1945-1946:
Đầu năm 1946, Hội nghị đại biểu công nhân cứu quốc đã quyết định chuyển Hội công nhân cứu quốc thành công đoàn. Ngày 20-7-1946 tại Nhà hát lớn Hà Nội, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam chính thức ra mắt với hơn 20 vạn đoàn viên.
Trong năm đầu đất nước giành độc lập, tổ chức công đoàn và giai cấp công nhân Việt Nam đã có nhiều đóng góp quan trọng cho công cuộc xây dựng, bảo vệ đất nước, bảo vệ và phát huy thành quả của Cách mạng Tháng Tám: tham gia tích cực vào cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam độc lập. Tại kỳ họp thứ hai, Quốc hội khoá I đã thông qua Dự án Luật Lao động. Dự án này có sự đóng góp quan trọng của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam trước khi trình Quốc hội.
Hoạt động Công đoàn trong kháng chiến chống thực dân Pháp (1946-1954):
Đêm ngày 19-12-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kêu gọi toàn quốc kháng chiến. Ngày 11-12-1947, Hội nghị Ban Thường vụ Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam đã quyết định: “Nhanh chóng tập hợp, động viên công nhân, lao động cả nước dồn sức và xây dựng những cơ sở sản xuất mới ở các chiến khu để vừa sản xuất, vừa chiến đấu.”
Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam đã phát động phong trào thi đua yêu nước, động viên công nhân lao động, khắc phục khó khăn, sản xuất nhiều vũ khí đạn dược và hàng hoá phục vụ sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc.
Năm 1950, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của dân tộc ta đã giành được nhiều thắng lợi quan trọng. Yêu cầu của sự nghiệp “kháng chiến kiến quốc” đòi hỏi phong trào công nhân và tổ chức Công đoàn phải có sự chuyển biến cao hơn, cả trong nhận thức và hành động.
Đại hội lần thứ I Công đoàn Việt Nam đã họp từ ngày 1 đến ngày 15-1-1950. Mục tiêu của Đại hội là: “Động viên công nhân viên chức cả nước, nhất là công nhân ngành Quân giới sản xuất nhiều vũ khí, khí tài phục vụ cho kháng chiến chống thực dân Pháp đến thắng lợi”.
Trong những năm 1951 - 1952, phong trào công nhân và hoạt động công đoàn ở vùng địch tạm chiếm đã có bước phát triển mới. Trong giai đoạn này, quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc là một.
Thắng lợi quân sự trên toàn chiến trường trong Đông Xuân 1953-1954 mà đỉnh cao là chiến thắng Điện Biên Phủ, là cơ sở quan trọng cho việc ký kết Hiệp định Giơnevơ về chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Đông Dương. Cuộc kháng chiến chín năm chống thực dân Pháp xâm lược đã giành được thắng lợi. Trong chiến thắng chung của dân tộc có những đóng góp to lớn của phong trào công nhân và tổ chức công đoàn.
Công đoàn Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc đấu tranh giải phóng miền Nam (1954 – 1975):
Tháng 9 năm 1957, Kỳ họp thứ 7 Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã thông qua Luật Công đoàn. Luật quy định rõ vai trò, nhiệm vụ và quyền hạn của tổ chức công đoàn, mối quan hệ giữa công đoàn và các cơ quan xí nghiệp tư bản tư doanh; những phương tiện hoạt động của công đoàn.
Trong 10 năm (1965-1975), hệ thống tổ chức và đội ngũ cán bộ công đoàn tiếp tục được củng cố và phát triển. Do yêu cầu của sự nghiệp chống Mỹ cứu nước, Tổng Công đoàn và các Liên hiệp Công đoàn các tỉnh, thành phố, Công đoàn ngành đã kịp thời chỉ đạo các đơn vị cơ sở chuyển hướng hoạt động, tăng cường củng cố và điều chỉnh nội dung sinh hoạt của công đoàn cơ sở. Cán bộ công đoàn ở những nơi có chiến sự ác liệt đã luôn vững vàng gương mẫu, đi đầu trong tổ chức sản xuất, chiến đấu, chăm lo đời sống cho công nhân, viên chức.
Đại hội Công đoàn Việt Nam lần thứ II đã họp từ ngày 23 đến ngày 27/2/1961. Đồng chí Trần Danh Tuyên được bầu làm Tổng Thư ký. Mục tiêu của Đại hội là: “Động viên cán bộ, công nhân, viên chức thi đua lao động sản xuất, xây dựng CNXH ở miền Bắc, với tinh thần “Mỗi người làm việc bằng hai vì miền Nam ruột thịt” góp phần đấu tranh thống nhất nước nhà”.
Đại hội lần thứ III Công đoàn Việt Nam đã họp từ ngày 11 đến ngày 14/2/1974. Đại hội đã bầu đồng chí Tôn Đức Thắng, Chủ tịch Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà làm Chủ tịch danh dự. Đồng chí Hoàng Quốc Việt được bầu làm Chủ tịch. Mục tiêu Đại hội là: “Động viên sức người, sức của chi viện cho chiến trường, tất cả để giải phóng miền Nam thống nhất đất nước”.
Ngày 17/4/1961, dưới sự lãnh đạo của Đảng, tại căn cứ Suối Mây, chiến khu D, tỉnh Tây Ninh, Hội lao động giải phóng miền Nam ra đời (sau đổi tên là Liên hiệp Công đoàn giải phóng miền Nam Việt Nam). Năm 1962, Hội lao động giải phóng được Liên hiệp Công đoàn thế giới công nhận là thành viên chính thức.
Trên cơ sở phát triển Hội lao động giải phóng, những năm từ 1965-1970 đã hình thành Liên hiệp Công đoàn giải phóng miền Nam, có hệ thống tổ chức trong toàn miền. Trong cuộc nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, Công đoàn giải phóng vận động công nhân lao động ở hầu khắp các đô thị nhất loạt nổi dậy phối hợp với các lực lượng vũ trang tiêu diệt địch giành quyền làm chủ.
Trong chiến dịch Hồ Chí Minh mùa Xuân năm 1975, ở hầu khắp các thành phố, thị xã công nhân chủ động nổi dậy bảo vệ nhà máy, xí nghiệp và phối hợp với lực lượng vũ trang giải phóng thành phố.
Công đoàn Việt Nam trong công cuộc cả nước xây dựng CNXH (1975 - 1986):
Đại hội Công đoàn toàn quốc lần thứ IV đã họp từ ngày 8 đến ngày 11/5/1978. Đại hội đã bầu đồng chí Nguyễn Văn Linh (sau này là Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng) làm Chủ tịch. Mục tiêu Đại hội là: “Động viên giai cấp công nhân và những người lao động khác thi đua lao động, sản xuất, phát triển kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hoá trong cả nước”.
Đại hội lần thứ V Công đoàn Việt Nam tiến hành từ ngày 16 - 18/11/1983. Đại hội đã bầu Đồng chí Nguyễn Đức Thuận là Chủ tịch. Mục tiêu của Đại hội là “Động viên công nhân lao động thực hiện 3 chương trình kinh tế lớn của Đảng. Phát triển nông nghiệp, công nghiệp thực phẩm, hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu”.
Qua 10 năm, đội ngũ công nhân, viên chức đã có nhiều đóng góp quan trọng cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Giữa những năm 1980 nền kinh tế nước ta rơi vào tình trạng khủng hoảng, giá cả hàng hoá, tiêu dùng tăng nhanh, nảy sinh nhiều tiêu cực trong phân phối làm cho đời sống của nhân dân nhất là công nhân, viên chức, lao động gặp nhiều khó khăn.
Công đoàn Việt Nam trong công cuộc đổi mới đất nước từ 1986 đến nay:
Đại hội lần thứ VI Công đoàn Việt Nam họp từ ngày 17 đến ngày 20/10/1988 đã bầu đồng chí Nguyễn Văn Tư làm Chủ tịch. Mục tiêu của Đại hội là: “ Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng vì việc làm, đời sống, dân chủ và công bằng xã hội”.
Đại hội lần thứ VII Công đoàn Việt Nam họp từ ngày 9 đến 12/11/1993 đã bầu lại đồng chí Nguyễn Văn Tư làm Chủ tịch. Mục tiêu của Đại hội là: “ Đổi mới tổ chức và hoạt động Công đoàn, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, chăm lo và bảo vệ lợi ích của công nhân lao động”.
Đại hội Công đoàn Việt Nam lần thứ VIII đã họp từ ngày 3/11 đến ngày 6/11/1998 đã bầu đồng chí Cù Thị Hậu làm Chủ tịch. Mục tiêu của Đại hội là: “Vì sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, vì việc làm, đời sống, dân chủ và công bằng xã hội, xây dựng giai cấp công nhân và tổ chức Công đoàn vững mạnh”.
Đại hội lần thứ IX Công đoàn Việt Nam họp từ ngày 10 đến ngày 13/10/2003 đã bầu đồng chí Cù Thị Hậu tái đắc cử Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam. Tháng 12/2006, đồng chí Đặng Ngọc Tùng được bầu làm Chủ tịch. Mục tiêu của Đại hội là: “Xây dựng giai cấp công nhân và tổ chức Công đoàn vững mạnh, chăm lo bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của CNVCLĐ, góp phần tăng cường đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”.
Đại hội lần thứ X Công đoàn Việt Nam họp từ ngày 02 - 05/11/2008 đã nhất trí bầu đồng chí Đặng Ngọc Tùng tái đắc cử Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam nhiệm kỳ (2008-2013). Đại hội đề ra khẩu hiệu hành động: “Đổi mới, sáng tạo; bảo vệ quyền lợi hợp pháp của đoàn viên, công nhân, viên chức, lao động, vì sự phát triển ổn định, bền vững của đất nước”. Đại hội xác định mục tiêu, phương hướng: “Tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của công đoàn các cấp; hướng về cơ sở, lấy cơ sở làm địa bàn hoạt động chủ yếu, lấy đoàn viên, CNVCLĐ làm đối tượng vận động; chuyển mạnh hoạt động công đoàn vào việc tổ chức thực hiện chức năng đại diện, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, CNVCLĐ; xây dựng quan hệ lao động hài hoà, ổn định, tiến bộ; góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế- xã hội của đất nước”.
Đại hội lần thứ XI Công đoàn Việt Nam diễn ra từ ngày 27 đến ngày 30 tháng 7 năm 2013, tại Thủ đô Hà Nội. Đại hội đã bầu đồng chí Đặng Ngọc Tùng tái đắc cử Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam nhiệm kỳ (2013-2018). Phương châm hành động của Đại hội: “Vì quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên và người lao động, vì sự phát triển bền vững của đất nước, tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt động công đoàn”. Đại hội xác định mục tiêu, phương hướng: “Tiếp tục đổi mới nội dung và phương thức hoạt động công đoàn theo hướng vì đoàn viên và người lao động, vì sự phát triển bền vững của đất nước; hướng mạnh về cơ sở, thực hiện tốt chức năng chăm lo đời sống, đại diện, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên và người lao động; tham gia có hiệu quả vào công tác quản lý nhà nước, quản lý kinh tế - xã hội; nâng cao chất lương công tác tuyên truyền, vận động, giáo dục và tổ chức thi đua yêu nước trong đoàn viên và người lao động; đẩy mạnh phát triển đoàn viên, thành lập công đoàn cơ sở, chăm lo đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công đoàn, xây dựng tổ chức công đoàn vững mạnh, góp phần xây dựng giai cấp công nhân ngày càng lớn mạnh, xứng đáng là lực lượng nòng cốt, đi đầu trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”.
3. Luật công đoàn Việt Nam
Luật Công đoàn năm 1990 và sau đó là Luật Công đoàn năm 2012 là những văn bản chính thức và đầy đủ nhất về công đoàn Việt Nam. Bên cạnh đó, BLLĐ năm 1994, cùng các sửa đổi, bổ sung, BLLĐ năm 2012 cùng các văn bản hướng dẫn thi hành có nhiều quy định nhắc đến các hoạt động của công đoàn trong quan hệ lao động ở doanh nghiệp cũng như ở các cấp khác nhau.
Nhìn lại quá trình phát triển của pháp luật về công đoàn cho thấy, pháp luật về công đoàn vẫn còn chậm đổi mới. Kể từ khi nước ta chuyển sang cơ chế thị trường, vai trò của công đoàn nơi làm việc đã có thay đổi. Các quy định về công đoàn vì thế cần cung cấp điều kiện cần thiết để công đoàn thực hiện chức năng và nhiệm vụ của mình. Pháp luật về công đoàn đã trải qua một số sửa đổi, tuy vậy, hoạt động đại diện lao động vẫn chưa hiệu quả (Nhiều quy định nhưng pháp luật chưa hướng vào những nội dung quan trọng, ví dụ, còn nhấn mạnh chức năng thực hiện các phúc lợi nhỏ của công đoàn trong khi các chức năng về đại diện và bào vệ NLĐ chưa đáp ứng được yêu cầu). Sự thiểu vắng những quy định nền tảng hoặc thiếu sự đồng bộ, thiếu nhất quán của pháp luật cũng khiến cho một số quy định dù có tinh thần tiến bộ nhưng không thực hiện được trên thực tế.
Ví dụ, quy định đối với đại diện tập thể lao động nơi chưa thành lập tổ chức công đoàn, theo BLLĐ sửa đồi, bổ sung năm 2006, đại diện tập thể lao động được trao quyền lãnh đạo đình công, lại không được trao quyền thương lượng tập thể, quyền khiếu kiện đối với tranh chấp lao động tập thể... Tương tự như vậy, quyền thành lập hoặc tham gia tổ chức công đoàn luôn được nhấn mạnh nhưng NLĐ cũng không có nhiều lựa chọn. Một tổ chức công đoàn cơ sở tồn tại ngoài cấu trúc của Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam sẽ không có tư cách pháp lí để hoạt động.
Ở những thời điểm nhất định, tính chất đa công đoàn ở khía cạnh nào đó đã được thừa nhận nhưng hiệu quả không cao. Đến nay với sự phát triển về nhận thức của các bên trong quan hệ lao động, nhu cầu nội tại của chính thị trường lao động Việt Nam, cùng với cam kết trong các FTA thế hệ mới, vấn đề tự do công đoàn đã được ghi nhận với những quy định có tính nguyên tắc trong bộ luật lao động năm 2019. Đây là những tiền đề pháp lí quan trọng cho việc thực thi nhân quyền lao động dưới góc độ quyền quan trọng nhất của NLĐ: Quyền tự do công đoàn và thương lượng tập thể ở Việt Nam.
4. Vị trí công đoàn Việt Nam
Vị trí của Công đoàn là địa vị của Công đoàn trong hệ thống chính trị - xă hội, là mối quan hệ của Công đoàn với các tổ chức đó.
- Công đoàn Việt Nam là tổ chức chính trị - xă hội rộng lớn của giai cấp công nhân, đội ngũ trí thức và những người lao động tự nguyện lập ra nhằm mục đích tập hợp, đoàn kết lực lượng, xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam lớn mạnh về mọi mặt; đại diện và bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động, phấn đấu xây dựng nước Việt Nam độc lập, thống nhất đi lên chủ nghĩa xă hội.
- Công đoàn Việt Nam là thành viên của hệ thống chính trị và là thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, là trung tâm tập hợp, đoàn kết, giáo dục, rèn luyện, xây dựng đội ngũ giai cấp công nhân, lao động. Vị trí của Công đoàn Việt Nam được Hiến pháp và Pháp luật của nước Cộng hoà xă hội chủ nghĩa Việt Nam và toàn thể công nhân, viên chức, lao động thừa nhận.
*Công đoàn có mối quan hệ với tổ chức khác trong hệ thống chính trị, xă hội như sau:
a) Mối quan hệ giữa Công đoàn Việt Nam với Đảng Cộng sản Việt Nam
Công đoàn Việt nam là sợi dây nối liền giữa Đảng với giai cấp công nhân, với toàn thể người lao động.
Mối quan hệ giữa Công đoàn và Đảng Cộng sản trong chặng đầu quá độ lên chủ nghĩa xă hội ở nước ta thể hiện: Vai trò lănh đạo của Đảng đối với Công đoàn, mặt khác thể hiện trách nhiệm của Công đoàn trong việc thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, và tham gia xây dựng Đảng.
+ Công đoàn hoạt động không thể thiếu sự lănh đạo của Đảng v́ Đảng là bộ phận tiên phong nhất, tích cực nhất của giai cấp công nhân. Sự lănh đạo của Đảng đối với Công đoàn được h́nh thành trong lịch sử đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân và Công đoàn Việt Nam. Dưới sự lănh đạo của Đảng, Công đoàn Việt Nam đă tham gia tích cực trong cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước và trong cách mạng xă hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
+ Đảng lănh đạo Công đoàn bằng đường lối, chủ trương Nghị quyết của Đại hội, Nghị quyết của cấp uỷ Đảng. Công đoàn Việt Nam với chức năng của ḿnh triển khai đường lối, chủ trương Nghị quyết của Đảng thành chương tŕnh công tác của tổ chức ḿình.
+ Đảng lănh đạo Công đoàn thông qua phát huy vai trò của từng đảng viên trong tổ chức Công đoàn các cấp.
+ Đảng tôn trọng tính độc lập về mặt tổ chức của tổ chức Công đoàn, không can thiệp, không g̣ ép cán bộ của Đảng làm công tác Công đoàn. Đảng chỉ giới thiệu những đảng viên là đoàn viên ưu tú để Công đoàn xem xét, tín nhiệm bầu vào Ban lănh đạo Công đoàn các cấp thông qua Đại hội.
+ Tính độc lập về mặt tổ chức của Công đoàn có nghĩa là: Công đoàn xây dựng tổ chức và hoạt động phù hợp với điều lệ của tổ chức Công đoàn Việt Nam trên cơ sở Nghị quyết Đại hội Công đoàn các cấp. Cần tránh nhận thức sai lầm về sự lănh đạo của Đảng đối với Công đoàn là sự can thiệp trực tiếp của Đảng vào công việc của Công đoàn. Đảng không gán ghép cán bộ của Đảng làm công tác Công đoàn, mà Đảng chỉ giới thiệu những Đảng viên tốt để Đại hội Công đoàn lựa chọn và bầu vào các cương vị lănh đạo Công đoàn. Đồng thời không được đồng nhất tính độc lập về mặt tổ chức của Công đoàn với sự “biệt lập”, “trung lập”, “đối lập”, “tách biệt” của Công đoàn với Đảng dẫn đến xa rời sự lănh đạo của Đảng đối với Công đoàn; Nếu nhằm lẫn sẽ dẫn đến sự lệch lạc mục tiêu hoạt động và không c̣n đúng bản chất của Công đoàn cách mạng.
+ Đảng kiểm tra Công đoàn thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng.
b) Trách nhiệm của Công đoàn Việt Nam đối với Đảng
+ Công đoàn là người tuyên truyền, phổ biến chủ trương, đường lối, chế độ chính sách và Nghị quyết của Đảng, Pháp luật của Nhà nước đến với quần chúng công nhân, viên chức và lao động, đồng thời vận động tổ chức cho công nhân, viên chức và lao động thực hiện nghiêm túc.
+ Công đoàn thường xuyên tổ chức cho quần chúng tham gia góp ư xây dựng Đảng với tinh thần thẳng thắn, chân t́nh trung thực và xây dựng.
+ Công đoàn thường xuyên bồi dưỡng, rèn luyện công nhân, viên chức và lao động, từ để lựa chọn, giới thiệu những đoàn viên ưu tú cho Đảng xem xét kết nạp, nhằm bổ sung, tăng cường thành phần công nhân trong Đảng.
+ Công đoàn nắm những tâm tư, nguyện vọng, những bức xúc của quần chúng công nhân, viên chức, lao động phản ánh với Đảng, để Đảng nghiên cứu đề ra đường lối, chủ trương đúng đắn, đáp ứng yêu cầu, nguyện vọng chính đáng của quần chúng công nhân, viên chức lao động.
c) Mối quan hệ giữa Công đoàn Việt Nam với Nhà nước
+ Dưới chủ nghĩa xă hội mối quan hệ giữa Công đoàn Việt Nam với Nhà nước là mối quan hệ b́nh đẳng, hợp tác, tôn trọng, phối hợp chặt chẽ với nhau trong các mặt hoạt động nhằm thực hiện mục tiêu chung là: “Dân giàu, nước mạnh, xă hội công bằng, dân chủ và văn minh”.
+ Nhà nước luôn tạo cho tổ chức Công đoàn về điều kiện vật chất, ban hành các văn bản pháp lư tạo cơ sở pháp lư cho Công đoàn hoạt động. Giữa Công đoàn và Nhà nước không có sự đối lập.
+ Công đoàn Việt Nam luôn cộng tác đắc lực với Nhà nước, góp phần xây dựng chính quyền Nhà nước không ngừng lớn mạnh. Công đoàn là người cung cấp, bồi dưỡng, rèn luyện những cán bộ ưu tú cho Đảng và Nhà nước.
5. Vai trò của Công đoàn Việt Nam
Nói vai tṛò của tổ chức là nói đến sự tác động của tổ chức đó đến tiến tŕnh phát triển của lịch sử và cách mạng, được phản ánh trên lĩnh vực kinh tế, chính trị, xă hội và tư tưởng mà tổ chức đó tồn tại và phát triển.
a) Khi chưa giành được chính quyền
Công đoàn có vai trò là trường học đấu tranh giai cấp, Công đoàn vận động, tổ chức công nhân, lao động đấu tranh chống lại giai cấp tư sản, bảo vệ quyền, lợi của công nhân, lao động. Cuộc đấu tranh của Công đoàn ngày càng phát triển, từ đấu tranh kinh tế sang đấu tranh chính trị với mục đích lật đổ giai cấp thống trị xoá bỏ chế độ người bóc lột người, giành chính quyền về tay giai cấp công nhân.
Ngày nay, trong điều kiện nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xă hội chủ nghĩa, vai trò của Công đoàn Việt nam ngày càng khẳng định.
Hiến pháp nước Công hoà xă hội chủ nghĩa Việt Nam (1992) chương I. Điều 10 đă ghi rơ: “Công đoàn là tổ chức chính trị - xă hội của giai cấp công nhân và của người lao động. Cùng với cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xă hội chăm lo bảo vệ quyền lợi của cán bộ, công nhân, viên chức và người lao động khác, tham gia quản lư Nhà nước và xă hội, tham gia kiểm tra, giám sát hoạt động của cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, giáo dục công nhân, viên chức và những người lao động khác xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
Luật Công đoàn đă được Quốc hội nước Cộng hoà xă hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua (tại kỳ họp thứ 7 khoá VIII ngày 30/6/1990) đă khẳng định: “Công đoàn là tổ chức chính trị - xă hội rộng lớn của giai cấp công nhân và người lao động Việt Nam tự nguyện lập ra dưới sự lănh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, là thành viên trong hệ thống chính trị của xă hội Việt Nam, là trường học chủ nghĩa xă hội của người lao động”.
Vai tṛò của Công đoàn Việt Nam ngày nay càng được mở rộng trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Sự mở rộng vai tṛò Công đoàn là phù hợp với tính tất yếu, khách quan, tính qui luật vận động và phát triển của tổ chức Công đoàn, nó phù hợp với qui luật chung của quá tŕnh xây dựng chủ nghĩa xă hội.
Thực tế, trong chặng đường lịch sử của đất nước những năm qua, Công đoàn Việt Nam đă trưởng thành nhanh chóng, thể hiện rơ vai trò của ḿnh đối với xă hội, Công đoàn đă thu hút, vận động giáo dục, tổ chức công nhân, viên chức và lao động tham gia tích cực vào công cuộc cách mạng. Trong các lĩnh vực của đời sống xă hội (kinh tế, chính trị, xă hội, văn hoá và tư tưởng), Công đoàn đă tỏ rơ sự tham gia tích cực, tác động mạnh mẽ của ḿnh thông qua hệ thống tổ chức từ trung ương đến địa phương, ngành, cơ sở, thông qua lực lượng đoàn viên, Công nhân, viên chức và lao động đă đạt được những thành tựu to lớn góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng của Đảng.
Vai tṛò của Công đoàn Việt Nam thể hiện trong các lĩnh vực:
* Trong lĩnh vực chính trị
Công đoàn có vai tṛò to lớn trong việc góp phần xây dựng và nâng cao hiệu quả của hệ thống chính trị - xă hội xă hội chủ nghĩa. Tăng cường mối liên hệ mật thiết giữa Đảng và nhân dân, bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động, từng bước hoàn thiện nền dân chủ xă hội chủ nghĩa, bảo đảm thực thi pháp luật và để Nhà nước thực sự là Nhà nước của dân, do dân và v́ dân. Để đảm bảo sự ổn định về chính trị.
* Trong lĩnh vực kinh tế: Công đoàn tham gia xây dựng hoàn thiện cơ chế quản lư kinh tế nhằm xoá bỏ quan liêu, bao cấp, củng cố nguyên tắc tập trung trên cơ sở mở rộng dân chủ. Góp phần củng cố những thành tựu kinh tế văn hoá và khoa học kỹ thuật đă đạt được trong những năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng. Tiếp tục đẩy mạnh, nâng cao hiệu quả hoạt động của các thành phần kinh tế trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai tṛòchủ đạo, liên kết và hỗ trợ các thành phần kinh tế khác phát triển có lợi cho quốc kế dân sinh. Đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, từng bước đưa kinh tế tri thức vào Việt Nam, góp phần nhanh chóng hội nhập với khu vực và thế giới. Đặc biệt, trong điều kiện nền kinh tế thị trường theo định hướng xă hội chủ nghĩa, việc đẩy mạnh hoạt động của các thành phần kinh tế vẫn đảm bảo cho kinh tế quốc doanh giữ vị trí then chốt, đóng vai tṛò chủ đạo.
* Trong lĩnh vực văn hoá - tư tưởng: Trong nền kinh tế nhiều thành phần Công đoàn phát huy vai tṛò của ḿnh trong việc giáo dục công nhân, viên chức và lao động nâng cao lập trường giai cấp, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hoạt động, phát huy những giá trị cao đẹp, truyền thống văn hoá dân tộc và tiếp thu những thành tựu tiên tiến của văn minh nhân loại góp phần xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc Việt Nam.
* Trong lĩnh vực xă hội: Công đoàn có vai tṛò trong tham gia xây dựng giai cấp công nhân vững mạnh cả về số lượng và chất lượng, không ngừng nâng cao tŕnh độ giác ngộ chính trị, tính tổ chức kỷ luật, tŕnh độ văn hoá, khoa học kỹ thuật, có nhăn quan chính trị, thực sự là lực lượng ṇng cốt của khối liên minh công - nông - trí thức, làm nền tảng của khối đại đoàn kết toàn dân, là cơ sở vững chắc đảm bảo vai tṛò lănh đạo của Đảng và tăng cường sức mạnh của Nhà nước.
Mọi vướng mắc pháp lý trong lĩnh vực lao động, công đoàn Hãy gọi ngay: 1900.6162 để được Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài. Trân trọng./.