Mục lục bài viết
- 1. Khái niệm dân tộc
- 2. Cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mác - Lênin
- 3. Quan hệ giữa giai cấp với dân tộc trong lịch sử
- 4. Vấn đề dân tộc và quan hệ giữa giai cấp với dân tộc trong thời đại ngày nay
- 4. Nhân loại và quan hệ giai cấp với nhân loại
- 5. Tư tưởng Hồ Chí Minh về quan hệ giai cấp, nhân loại trong cách mạng Việt Nam
- 6. Quan hệ giai cấp, dân tộc, nhân loại trong cách mạng Việt Nam hiện nay
1. Khái niệm dân tộc
Với khái niệm dân tộc được nhắc đến với hai nghĩa:, cụ thể:
- Theo nghĩa rộng:
Khái niệm dân tộc dùng để chỉ cộng đồng người cụ thể nào đó có những mối liên hệ chặt chẽ, bền vững, có sinh hoạt kinh tế chung, có ngôn ngữ chung của cộng đồng và trong sinh hoạt văn hóa có những nét đặc thù so với những cộng đồng khác; xuất hiện sau cộng đồng bộ lạc; có kế thừa và phát triển hơn những nhân tố tộc người ở cộng đồng bộ lạc và thể hiện thành ý thức tự giác của các thành viên trong cộng đồng đó.
- Theo nghĩa hẹp:
Khái niệm dân tộc dùng để chỉ một cộng đồng người ổn định, bền vững hợp thành nhân dân của một quốc gia, có lãnh thổ chung, nền kinh tế thống nhất, quốc ngữ chung, có truyền thống văn hóa, truyền thống đấu tranh chung trong quá trình dựng nước và giữ nước.
=> Nếu theo nghĩa thứ nhất (nghĩa rộng), dân tộc là bộ phận của quốc gia, là cộng đồng xã hội theo nghĩa là các tộc người, còn theo nghĩa thứ hai thì dân tộc là toàn bộ nhân dân một nước, là quốc gia dân tộc. Với nghĩa như vậy, khái niệm dân tộc và khái niệm quốc gia có sự gắn bó chặt chẽ với nhau, dân tộc bao giờ cũng ra đời trong một quốc gia nhất định và thực tiễn lịch sử chứng minh rằng những nhân tố hình thành dân tộc chín muồi thường không tách rời với sự chín muồi của những nhân tố hình thành quốc gia. Đây là những nhân tố bổ sung và thúc đẩy lẫn nhau trong quá trình phát triển.
2. Cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mác - Lênin
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, vấn đề dân tộc là một bộ phận của những vấn đề chung về cách mạng vô sản và chuyên chính vô sản. Do đó, giải quyết vấn đề dân tộc phải gắn với cách mạng vô sản và trên cơ sở của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Chủ nghĩa Mác - Lênin cũng nhấn mạnh rằng, khi xem xét và giải quyết vấn để dân tộc phải đáp ứng vững trên lập trường giai cấp công nhân. Điều đó cũng có nghĩa là việc xem xét và giải quyết vấn đề dân tộc phải trên cơ sở và vì lợi ích cơ bản, lâu dài của dân tộc.
Giải quyết vấn để dân tộc thực chất là xác lập quan hệ công bằng, bình đẳng giữa các dân tộc trong một quốc gia, giữa các quốc gia dân tộc trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội.
Trên cơ sở tư tưởng của C.Mác, Ph.Ăngghen về vấn đề dân tộc và giai cấp, cùng với sự phân tích hai xu hướng của vấn đề dân tộc, V.I.Lênin đã nêu ra "Cương lĩnh dân tộc" với ba nội dung cơ bản: các dân tộc hoàn toàn bình đẳng; các dân tộc được quyền tự quyết; liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc. Đây được coi là cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mác - Lênin là một bộ phận không thê tách rời trong cương lĩnh cách mạng của giai câp công nhân; là tuyên ngôn về vấn đề dân tộc của đảng cộng sản trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải quyết đúng đắn mối quan hệ dân tộc. Cương lĩnh đã trở thành cơ sở lý luận cho chủ trương, đường lối và chính sách dân tộc của các đảng cộng sản và nhà nước xã hội chủ nghĩa.
- Các dân tộc hoàn toàn bình đẳng
Quyền bình đẳng giữa các dân tộc là quyền thiêng liêng của dân tộc. Tất cả các dân tộc, dù đông người hay ít người, có trình độ phát triển cao hay thấp đều có quyền lợi và nghĩa vụ như nhau, không có đặc quyền đặc lợi về kinh tế, chính trị, văn hóa, ngôn ngữ cho bất cứ dân tộc nào.
Trong một quốc gia có nhiều dân tộc, quyền bình đẳng giữa các dân tộc phải được pháp luật bảo vệ và phải được thực hiện trong thực tế, trong đó việc khắc phục sự chênh lệch về trình độ phát triển kinh tế, văn hóa giữa các dân tộc do lịch sử để lại có ý nghĩa cơ bản.
Trong quan hệ giữa các quốc gia - dân tộc, quyền bình đẳng dân tộc gắn liền với cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, chủ nghĩa bá quyền nước lớn; chống sự áp bức, bóc lột của các nước tư bản phát triển đối với các nước lạc hậu, chậm phát triển về kinh tế. Mọi quốc gia đều bình đẳng trong quan hệ quốc tế.
- Các dân tộc được quyền tự quyết
Quyền dân tộc tự quyết là quyền làm chủ của mỗi dân tộc, quyền tự quyết định con đường phát triển kinh tế, chính trị - xã hội của dân tộc mình. Quyền dân tộc tự quyết bao gồm quyền tự do phân lập thành cộng đồng quốc gia dân tộc độc lập (vì lợi ích của các dân tộc, chứ không phải vì mưu đồ và lợi ích của một nhóm người nào) và quyền tự nguyện liên hiệp lại với các dân tộc khác trên cơ sở bình đẳng.
Khi xem xét giải quyết quyền tự quyết của dân tộc, cần đứng vững trên lập trường của giai cấp công nhân: ủng hộ các phong trào dân tộc tiến bộ, kiên quyết đấu tranh chống lại những mưu toan lợi dụng quyền dân tộc tự quyết làm chiêu bài để can thiệp vào công việc nội bộ các nước, đòi ly khai chia rẽ dân tộc.
- Liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc
Đây là tư tưởng, nội dung cơ bản trong "Cương lĩnh dân tộc" của V.I.Lênin. Tư tưởng này là sự thể hiện bản chất quốc tế của giai cấp công nhân, phong trào công nhân và phản ánh tính thống nhất giữa sự nghiệp giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp.
3. Quan hệ giữa giai cấp với dân tộc trong lịch sử
Về quan hệ giữa giai cấp với dân tộc trong lịch sử, chúng có mối quan hệ mật thiết, không tách rời nhau và cũng không thay thế được cho nhau.
- Giai cấp cơ bản là sản phẩm trực tiếp của phương thức sản xuất đang tồn tại; giai cấp không cơ bản và các tầng lớp trung gian.
- Giai cấp cơ bản giữ vai trò quy định tính chất, xu hướng mối quan hệ giữa các dân tộc và xu hướng phát triển của dân tộc.
- Lợi ích giai cấp và lợi ích dân tộc không hoàn toàn đồng nhất với nhau.
- Vấn đề dân tộc còn tồn tại lâu dài và vấn đề giai cấp được giải quyết theo quan điểm của một giai cấp nhất định.
- Vai trò to lớn của vấn đề dân tộc trong sự phát triển của lịch sử và vai trò của cách mạng giải phóng dân tộc đối với cách mạng giải phóng giai cấp vô sản.
4. Vấn đề dân tộc và quan hệ giữa giai cấp với dân tộc trong thời đại ngày nay
Những biến đổi nổi bật trong thời đại ngày nay có thể nói đến, đó là:
- Cách mạng khoa học và công nghệ phát triển tạo ra những bước nhảy vọt về chất của lực lượng sản xuất đã thúc đẩy nhanh chóng quá trình xã hội hoá, quốc tế hoá các kết cấu giai cấp; các quan hệ giai cấp - dân tộc - nhân loại.
- Sự sụp đổ của Liên Xô và hệ thống xã hội chủ nghĩa. Chủ nghĩa tư bản đang ở thế có lợi, có ưu thế hơn chủ nghĩa xã hội
- Chế độ xã hội chủ nghĩa tiếp tục tồn tại; tuy bị suy yếu nhưng tiếp tục thích nghi, đổi mới để phát triển.
- Ưu thế của cơ chế thị trường trên toàn thế giới và sự phát triển nhanh của quá trình toàn cầu hoá.
=> Bới những biến đổi trên đây không làm mất tính chất của thời đại ngày nay là thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội.
Nội dung vấn đề giai cấp hiện nay quan hệ chặt chẽ với vấn đề độc lập dân tộc; ngược lại, vấn đề xây dựng mối quan hệ bình đẳng giữa các dân tộc, vấn đề giải phóng dân tộc tác động mạnh mẽ đến cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân trên thế giới.
Trong thời đại ngày nay, yếu tố dân tộc trong sự phát triển xã hội và trong quan hệ dân tộc - giai cấp vận động theo hai xu hướng
- Xu hướng giảm tương đối vai trò yếu tố dân tộc và sự khác biệt giữa các dân tộc; tăng sự phụ thuộc, giao lưu lẫn nhau giữa các dân tộc.
- Xu hướng khẳng định và tăng cường yếu tố dân tộc, bản sắc dân tộc.
4. Nhân loại và quan hệ giai cấp với nhân loại
5. Tư tưởng Hồ Chí Minh về quan hệ giai cấp, nhân loại trong cách mạng Việt Nam
Tiếp thu quan điểm của V.I.Lênin, trên nền tảng truyền thống yêu nước và nhân ái của dân tộc Việt Nam, Tư tưởng Hồ Chí Minh về quan hệ giai cấp, nhân loại trong cách mạng Việt Nam có thể nói đến một số nội dung cần chú ý sau:
- Trong giai đoạn mới thành lập, Hồ Chí Minh - Người sáng lập và rèn luyện Đảng Cộng sản Việt Nam - có quan điểm riêng, độc đáo về vấn đề giai cấp và vấn đề dân tộc. Người cho rằng: "Phải kết hợp và giải quyết hài hòa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp, song phải đặt lợi ích dân tộc lên trên hết và trước hết." Luận điểm này của Người xuất phát từ cơ sở thực tiễn của phương Đông và Việt Nam. Hồ Chí Minh cho rằng Việt Nam là một nước thuộc địa nửa phong kiến, mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với chủ nghĩa đế quốc và tay sai nổi trội hơn mâu thuẫn giữa giai cấp nông dân với địa chủ phong kiến, giữa tư sản với vô sản. Do đó, không phải giải quyết vấn đề giai cấp rồi mới giải quyết vấn đề dân tộc như ở phương Tây. Ngược lại chỉ có thể giải quyết vấn đề dân tộc mới giải phóng được giai cấp. Quyền lợi dân tộc và giai cấp là thống nhất, quyền lợi dân tộc không còn, thì quyền lợi mỗi giai cấp, mỗi bộ phận trong dân tộc cũng không thể thực hiện được. Quan điểm này sau này thể hiện rõ ở Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8, năm 1941 do Người chủ trì:
“Trong lúc này quyền lợi của bộ phận giai cấp phải đặt dưới sự tồn vong sinh tử của quốc gia dân tộc. Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được tự do độc lập cho toàn dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc chịu mãi kiếp ngựa trâu mà quyền lợi của bộ phận giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”.
Do vậy, Người kêu gọi: Dù có phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải giành cho được độc lập” và “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”.
Sự vận dụng sáng tạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh về mối quan hệ biện chứng giữa dân tộc và giai cấp trong chủ nghĩa Mác - Lênin có tác dụng lớn lao đối với việc tập hợp lực lượng vào sự nghiệp giải phóng dân tộc ở Việt Nam cũng như ở các nước thuộc địa nói chung. Tuy nhiên, cần nhấn mạnh rằng, trong khi nêu cao vấn đề dân tộc, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh không bao giờ hạ thấp hoặc coi thường vấn đề giai cấp và đấu tranh giai cấp. Đối với Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, chủ nghĩa dân tộc chân chính và chủ nghĩa quốc tế vô sản thống nhất với nhau. Hơn thế, trong những điều kiện nhất định, chủ nghĩa dân tộc có thể phát triển thành chủ nghĩa quốc tế vô sản, “khi chủ nghĩa dân tộc của họ thắng lợi, thì đã lâu lắm rồi, phần lớn thế giới sẽ xôviết hóa và lúc đó, nhất định chủ nghĩa dân tộc ấy sẽ biến thành chủ nghĩa quốc tế”(18). Bởi vậy, chủ nghĩa dân tộc theo Hồ Chí Minh, hoàn toàn không phải là thứ chủ nghĩa dân tộc phong kiến, tư sản hay của Quốc tế II, mà là chủ nghĩa dân tộc chân chính, theo lập trường chủ nghĩa Mác - Lênin, gắn dân tộc với quốc tế, dân tộc với giai cấp, hướng tới triệt để giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội và giải phóng con người. Như vậy, chủ nghĩa dân tộc mà Hồ Chí Minh dùng ở đây, nói như C.Mác, không phải như giai cấp tư sản đã hiểu, mà là chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc chân chính của người dân bản xứ.
- Đường lối cách mạng Việt Nam xuyên suốt và nhất quán qua các giai đoạn cách mạng với quan điểm: Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, cụ thể hóa bằng chính sách dân tộc trên 3 nguyên tắc: bình đẳng, đoàn kết, giúp nhau cùng phát triển.
Tại Đại hội VIII của Đảng đã rút ra 6 bài học chủ yếu của 10 năm đổi mới. Trong đó, bài học đầu tiên là “giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong quá trình đổi mới; nắm vững hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, kiên trì chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh”. Đặc biệt, tại Đại hội IX đã đưa ra luận điểm mang tầm khái quát lý luận về quan hệ giai cấp, lợi ích giai cấp và lợi ích giai cấp dân tộc trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam:
"mối quan hệ giữa các giai cấp, các tầng lớp xã hội là quan hệ hợp tác và đấu tranh trong nội bộ nhân dân, đoàn kết và hợp tác lâu dài trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc dưới sự lãnh đạo của Đảng. Lợi ích giai cấp công nhân thống nhất với lợi ích toàn dân tộc trong mục tiêu chung: Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh."
Tiếp đến là Đại hội X của Đảng (năm 2006) tiếp tục nêu những quan điểm mới trong vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa giai cấp và dân tộc ngay trong quan niệm về Đảng Cộng sản Việt Nam:
"Đảng cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành với lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc."
Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), Đảng ta khẳng định:
“Từ thực tiễn phong phú của cách mạng, Đảng ta đã rút ra những bài học kinh nghiệm lớn: nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội - ngọn cờ vinh quang mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trao lại cho thế hệ hôm nay và các thế hệ mai sau. Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc”.
- Đảng Cộng sản Việt Nam luôn giải quyết mối quan hệ giữa giai cấp và dân tộc trên lập trường giai cấp vô sản, đấu tranh chống chủ nghĩa dân tộc cực đoan. Do đó, Đảng ta nhấn mạnh, khi khẳng định đặt lợi ích quốc gia dân tộc lên trên hết không có nghĩa là bỏ qua chủ nghĩa quốc tế vô sản, bỏ qua trách nhiệm quốc tế vì sự tiến bộ và phát triển của tất cả các dân tộc.
=> Dân tộc, giai cấp và mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp đã và đang đặt ra nhiều vấn đề cả về lý luận và thực tiễn đòi hỏi phải giải đáp. Điều đó càng cho thấy sự cần thiết phải tiếp tục nghiên cứu, học tập, quán triệt quan điểm của các nhà kinh điển, tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và giai cấp trong tình hình mới, làm cơ sở vững chắc cho việc vận dụng, hoạch định, tổ chức và thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, để đưa dân tộc ta vượt qua mọi thử thách, vững bước trong quá trình xây dựng một đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
=> Kết luận: Theo tư tưởng Hồ Chí Minh về quan hệ giai cấp, nhân loại trong cách mạng Việt Nam, chúng ta có thể kết luận lạu với những nội dugn chính như:
- Cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới.
- Giải phóng giai cấp phải gắn liền với giải phóng dân tộc, độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
- Phát huy khối đoàn kết toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
6. Quan hệ giai cấp, dân tộc, nhân loại trong cách mạng Việt Nam hiện nay
- Phát huy khối đoàn kết toàn dân tộc trên cơ sở liên minh công - nông - trí dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
- Giải quyết tốt mối quan hệ giữa xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với đại đoàn kết dân tộc.
- Giải quyết tốt mối quan hệ giữa giữ vững độc lập tự chủ với mở rộng quan hệ quốc tế, phát huy sức mạnh nội lực của dân tộc với tranh thủ sức mạnh của thời đại.
Trên đây là nội dung Luật Minh Khuê đã (sưu tầm và biên soạn, tổng hợp từ các nguồn trên internet). Mọi vướng mắc bạn vui lòng trao đổi trực tiếp với Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài gọi số: 1900.6162 hoặc liên hệ văn phòng để nhận được sự tư vấn, hỗ trợ từ Luật Minh Khuê.