Mục lục bài viết
Sau khi giành được chính quyền, Nhà nước ta tiến hành cải cách ruộng đất tịch thu đất đai của thực dân, địa chủ, phong kiến chia cho người nông dân. Tiếp theo vào những năm 60 và 80 của thế kỉ XX, vận động người nông dân tự nguyện góp ruộng đất và các tư liệu sản xuất khác vào làm ăn tập thể trong các hợp tác xã, tập đoàn sản xuất. Hiến pháp năm 1980 ra đời quy định: Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lí. Hiến pháp năm 1992 tiếp tục duy trì và củng cố quy định này của Hiến pháp năm1980.
Điều 17 Hiến pháp năm 1992 quy định: Đất đai, rừng núi, sông hồ, nguồn nước, tài nguyên trong lòng đất, nguồn lợi ở vùng biển, thểm lục địa và vùng trời, phần vốn và tài sản do Nhà nước đầu tư vào các xí nghiệp, công trình thuộc các ngành và lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội, khoa học, kĩ thuật, ngoại giao, quốc phòng, an ninh cùng các tài sản khác mà pháp luật quy định là của Nhà nước đều thuộc sở hữu toàn dân.
1. Khái niệm quốc hữu hóa
Quốc hữu hoá là việc chuyển tài sản thuộc sở hữu tư nhân thành tài sản thuộc sở hữu nhà nước không phụ thuộc vào ý chí của chủ sở hữu bằng biện pháp cưỡng chế theo quy định của pháp luật của nhà nước tiến hành quốc hữu hoá. Quốc hữu hoá trong tư pháp quốc tế có yếu tố nước ngoài: ví dụ, nhiều trường hợp nhà nước quốc hữu hoá tài sản của người nước ngoài, pháp nhân nước ngoài và tài sản đó đang nằm trên lãnh thổ quốc gia tiến hành quốc hữu hoá hoặc quốc hữu hoá tài sản thuộc quyền sở hữu của công dân, pháp nhân quốc Irag. Chính phủ Anh đệ đơn kiện lên toà án quốc tế của Liên hợp quốc, nhung toà án không thụ lý đơn, không xét đơn đó và tuyên bố rằng toà án không có thẩm quyền giải quyết việc đó. Toà án quốc tế đã hành động nhu vậy vì cho rằng việc Chính phủ Irag quốc hữu hoá hay không là công việc nội bộ của Irag.
Ở Việt Nam, trong quá trình cải tạo và xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, Nhà nước Việt Nam đã tiến hành quốc hữu hoá một số tài sản, xí nghiệp của tư nhân thông qua các đạo luật như: sắc lệnh ngày 15/01/1946, Luật cải cách ruộng đất 1953; Quyết định của Hội đồng Chính phủ số 111/CP ngày 14/4/1977 về việc ban hành chính sách quản lý và cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nhà, đất cho thuê ở các đô thị của các tỉnh phía Nam.
2. Đặc điểm quốc hữu hóa đất đai
Với các phân tích trên đây, có thể nhận thấy rõ quốc hữu hoá là một phần của luật công, đó là mối quan hệ giữa nhà nước ban hành đạo luật quốc hữu hoá và cá nhân, tổ chức có tài sản là đối tượng của đạo luật quốc hữu hoá. về bản chất, hành vi quốc hữu hoá là một việc làm thể hiện quyền lực nhà nước của nhà nước ban hành đạo luật quốc hữu hoá. Bên bị quốc hữu hoá cho dù không mong muôn vẫn phải tuân thủ. Trong thực tiễn đã xảy ra mâu thuẫn xung đột về lợi ích giữa quốc gia tiến hành quốc hữu hoá và các cá nhân, pháp nhân nước ngoài bị quốc hữu hoá tài sản. Ở đây có mối quan hệ rất rõ ràng giữa việc quốc hữu hoá và vấn đề quyền sở hữu của cá nhân, pháp nhân. Quyền sở hữu là quyền tài sản quan trọng nhất được thừa nhận trong xã hội, và pháp luật đặc biệt tôn trọng thậm chí đây còn là quyền hiến định là bất khả xâm phạm. Song, trong trường hợp đối tượng tài sản thuộc phạm vi điều chỉnh của đạo luật quốc hữu hoá thì lúc này quyền sở hữu đối với các tài sản đó của các chủ thể không phải nhà nước sẽ bị ảnh hưởng. Lý do cho sự ảnh hưởng này chính là mục đích của việc ban hành đạo luật quốc hữu hoá. Hay ở một góc nhìn khác thì khi cần phải cân nhắc giữa lợi ích quốc gia, lợi ích cộng đồng với lợi ích của cá nhân, tổ chức thì rõ ràng sự việc trở nên dễ dàng hơn, lợi ích công sẽ được lựa chọn.
Ví dụ, tháng 01/2007, Tổng thống Venezuela công bố kế hoạch quốc hữu hoá các Công ty điện và viễn thông nước này; tháng 5/2009 tuyên bố thực hiện kế hoạch quốc hữu hoá tài sản của các Công ty dầu khí đang hoạt động tại nước này; tháng 11/2006 Tổng thống Bolivia ký Sắc lệnh quốc hữu hoá ngành công nghiệp dầu khí và khí đốt, tháng 12/2012 ký Sắc lệnh quốc hữu hoá Công ty điện lực của nước ngoài.
Chính sách quốc hữu hoá của một số quốc gia như Venezuela, Bolivia đã khiến cho các nhà đầu tư thấy không an toàn về mặt pháp lý cho các Công ty của họ. Việc làm này đã tác động nghiêm trọng làm giảm vốn đầu tư nước ngoài vào các quốc gia tiến hành quốc hữu hoá.
Trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, để tránh ảnh hưởng tiêu cực tới uy tín chính trị và khả năng thu hút vốn đầu tư nước ngoài, các quốc gia khi tiến hành quốc hữu hoá hay trưng thu, trưng dụng tài sản của người nước ngoài, pháp nhân nước ngoài thường có bồi thường thoả đáng các thiệt hại xảy ra. Bên cạnh đó, các quốc gia đã thoả thuận ký kết các hiệp định song phương về khuyến khích và bảo hộ đầu tư hoặc tham gia ký kết các điều ước quốc tế đa phương trong đó ghi nhận đảm bảo cam kết không quốc hữu hoá tài sản của các nhà đầu tư nước ngoài.
3. Quá trình quốc hữu hóa đất đai ở Việt Nam
Giai đoạn 1945-1954
Ngay từ khi mới thành lập (03/2/1930), Đảng ta luôn luôn quan tâm đến vấn đề ruộng đất, coi việc giải quyết vấn đề ruộng đất là một nội dung quan trọng của cách mạng dân tộc, dân chủ.
Cương lĩnh chính trị của Đảng năm 1930 đã đề ra nhiệm vụ chiến lược của Cách mạng Việt Nam: “Đánh đổ đế quốc xâm lượcgiành độc lập dân tộc và xóa bỏ chế độ phong kiến giành ruộng đất cho nông dân ”.
Cách mạng Tháng Tám 1945 thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa ra đời đánh đấu một kỷ nguyên mới độc lập cho dân tộc, tự do hạnh phúc cho nhân đân. Điều này đã đặt nền móng cho chính sách ruộng đất của Nhà nước dân chủ nhân dân. Sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã ban hành sắc lệnh giảm tô, tịch thu ruộng đất của thực dân Pháp, Việt gian phản động chia cho nông dân nghèo, chia lại công điền công thổ. Ngày 20/10/1945 Chính phủ ra sắc lệnh giảm tô 25%. Ngày 26/10/1945 Chính phủ ra Nghị định giảm thuế 20%.
Năm 1946 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh về giảm tô, bãi bỏ thuế thổ trạch ở thôn quê.
Tiến hành cải cách ruộng đất
Hội nghị lần thứ Năm Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa II (tháng 11/1953) đã thông qua cương lĩnh ruộng đất. Luật Cải cách ruộng đất đã được Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa thông qua ngày 4/10/1953. Theo quy định của Luật Cải cách ruộng đất, ruộng đất được chia cho nông dân theo nguyên tắc: “thiếu nhiều chia nhiều, thiếu ít chia ít, không thiếu không chia; chia trên cơ sở nguyên canh, rút nhiều bù ít, rút tốt bù xấu, rút gần bù xa; chia theo nhân khẩu chứ không chia theo lao động; lấy số diện tích bình quân và sản lượng bình quân ở địa phương làm tiêu chuẩn để chia; chia theo đơn vị xã, xong nếu xã ít người, nhiều ruộng thì thì có thể san sẻ một phần cho xã khác ít ruộng, nhiều người, sau khi chia đủ cho nông dân trong xã” (Luật ‘Cải cách ruộng đất’ năm 1953).
Trong điều kiện kháng chiến Cải cách ruộng đất đã tiến hành 5 đợt giảm tô và bắt đầu đợt 1ở 53 xã thuộc vùng tự do ở các tỉnh: Thái Nguyên, Bắc Giang, Thanh Hóa. Cải cách ruộng đất đã làm thay chế độ sở hữu ruộng đất phong kiến tồn tại hàng ngàn năm ở nước ta, tạo động lực thực hiện “kháng chiến, kiến quốc” thành công, đồng thời đặt nền tảng cho các chính sách phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn trong các giai đoạn tiếp theo.
Giai đoạn 1955 – 1975
– Tháng 9/1954 Bộ Chính trị ra quyết định thực hiện hoàn thành cải cách
ruộng đất và Kế hoạch 3 năm khôi phục kinh tế (1955 – 1957). Tháng 5/1955
Quốc Hội ban hành 8 chính sách khuyến khích sản xuất nông nghiệp nhằm khôi phục kinh tế sau chiến tranh (khi chiến tranh kết thúc 140.000 ha ruộng đất bị bỏ hoang hóa; 200.000 ha không có nước tưới);
– Kết quả thực hiện cải cách ruộng đất (ở miền Bắc): 810.000 ha ruộng đất (trong đó ruộng đất của thực dân Pháp 30.000 ha, của địa chủ 380.000 ha, của nhà chung 24.000 ha và đất công điền công thổ 375.000 ha).
– Những năm 1960, miền Bắc thực hiện phong trào “hợp tác hóa” vận động người dân đóng góp ruộng đất và các tư liệu sản suất khác vào làm ăn tập thể trong các hợp tác xã, tập đoàn sản xuất. Quá trình hợp tác hóa nông nghiệp đã diễn ra nhanh chóng, với sự tập trung cao độ ruộng đất.
Trong cuốn ‘Một số vấn đề về sở hữu ở nước ta hiện nay’ được giới thiệu ở trên, trang 176 có viết: “Mặc dù Hiến pháp 1959 quy định rõ nhà nước bảo hộ quyền sở hữu tư nhân về ruộng đất của người nông dân nhưng trong quá trình vận động nông dân đi vào làm ăn tập thể, tiến hành hợp tác hóa nông nghiệp và thực hiện việc cải tạo nền kinh tế quốc dân theo chủ nghĩa xã hội, về cơ bản đất đai ở nước ta từng bước được xã hội hóa toàn bộ.”
Nghị quyết 24 – Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa III tháng 9/1975
đã xác định chủ trương: “Triệt để xóa bỏ tàn dư chế độ thực dân phong kiến về ruộng đất” với phương hướng: “Kết hợp chặt chẽ giữa cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp với xây dựng nền nông nghiệp lớn xã hội chủ nghĩa, một mặt xây dựng các nông trường quốc doanh… mặt khác phải thực hiện hợp tác hóa nông nghiệp,làm từng bước tích cực, vững chắc”.
Giai đoạn 1976 – 1985
– Thực hiện Chỉ thị 57/CT-TƯ ngày 14/3/1978 Bộ Chính Trị “về việc nắm
vững và đẩy mạnh công tác cải tạo nông nghiệp miền Nam” và Chỉ thị 43 CT-TƯ ngày 15/11/1978 Bộ Chính Trị “về việc xóa bỏ các hình thức bóc lột của phú nông, tư sản nông thôn và tàn dư bóc lột phong kiến, thực sự phát huy quyền làm chủ của nông dân lao động, đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp ở các tỉnh phía Nam”
– Hiến pháp 1980 quy định rõ:
“Đất đai, núi rừng, sông hồ, hầm mỏ, tài nguyên thiên nhiên trong lòng đất, ở vùng biển và thềm lục địa… đều thuộc sở hữu toàn dân” (Điều 19).
“Nhà nước thống nhất quản lý đất đai theo quy hoạch chung, nhằm bảo đảm đất đai được sử dụng hợp lý và tiết kiệm.” (Điều 20).
Đây là cơ sở pháp lý cao nhất xác định rõ toàn dân là chủ sở hữu đối với toàn bộ vốn đất quốc gia. Hiến pháp 1980 cũng là văn bản pháp luật đầu tiên quy định: SỞ HỮU TOÀN DÂN về đất đai.
– Ngày 29/11/1983 Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ban hành Chỉ thị 29-CTTW về việc đẩy mạnh giao đất giao rừng, xây dựng rừng và tổ chức kinh doanh theo phương thức nông lâm kết hợp, chủ trương giao đất, giao rừng cho hộ nông dân nhằm khuyến khích nông dân trồng rừng trên đất trống, đồi núi trọc; nông dân được quyền thừa kế tài sản trên đất trồng rừng và cây công nghiệp dài ngày.
Giai đoạn 1986 đến nay.
Đường lối Đổi mới, đẩy mạnh Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã được xác định tại Đại hội Đại biểu toàn quốc Đảng Cộng sản Việt Nam khoá VI (1986), và được Đại hội Đại biểu toàn quốc Đảng Cộng sản Việt Nam Khoá VII (1991), Khoá VIII (1996), Khoá IX ( 2001), Khoá X (2006) tiếp tục phát triển.
Hiến Pháp Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 1992, đã quy định: Đất đai thuộc sở hữu toàn dân (Điều 17);
4. Quyền sở hữu của người nước ngoài tại Việt Nam
Hiện nay, pháp luật Việt Nam chưa có một văn bản thống nhất chung quy định các loại sở hữu tài sản của người nước ngoài. Chính vì vậy, việc xem xét, nghiên cứu về quyền sở hữu của người nước ngoài ở Việt Nam phải căn cứ vào rất nhiều văn bản pháp luật khác nhau. Trên thực tế, các văn bản pháp luật quy định liên quan đến quyền sở hữu của người nước ngoài tại Việt Nam ngày càng được hoàn thiện hơn nhằm đảm bảo quyền sở hữu của người nước ngoài tại Việt Nam.
Thông qua Nghị quyết số 19/2008/QH12 ngày 03/6/2008 về việc thí điểm cho tổ chức, cá nhân nước ngoài mua và sở hữu nhà ở tại Việt Nam; Chính phủ ban hành Nghị định số 51/2009/NĐ-CP ngày 03/6/2009 hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị quyết số 19/2008/QH12, qua đó cho phép tổ chức, cá nhân nước ngoài được phép sở hữu nhà ở tại Việt Nam không nhằm mục đích kinh doanh, đồng thời ban hành các quy định hết sức chặt chẽ để đảm bảo chính sách vừa có thể đáp ứng nhu cầu về chỗ ở cho người mua nhà, hạn chế tối đa việc lợi dụng chính sách để đầu cơ, hoặc vào các mục đích khác ảnh hưởng đến thị trường bất động sản và nền kinh tế, xã hội của đất nước.
Theo đó, người nước ngoài muốn sở hữu nhà ở tại Việt Nam phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép cư trú từ một năm trở lên và không thuộc diện được hưởng quyền ưu đãi, miễn trừ ngoại giao, lãnh sự theo quy định của pháp luật Việt Nam. Tuy nhiên, theo quy định tại Nghị quyết số 19/2008/QH12, cá nhân nước ngoài chỉ được mua và sở hữu một căn hộ chung cư hoặc một số căn hộ chung cư đối với tổ chức nước ngoài trong dự án phát triển nhà ở thương mại của Việt Nam. Thời hạn tối đa sử dụng nhà là 50 năm. Họ được quyền bán, tặng cho nhà ở thuộc sở hữu của mình sau thời hạn 12 tháng, kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở.
Luật nhà ở năm 2014 đã mở rộng hơn quyền sở hữu bất động sản của người nước ngoài tại Việt Nam. Các quy định của Luật nhà ở 2014 nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người nước ngoài tham gia đầu tư, các chuyên gia, nhà khoa học, các nhà quản lý giỏi có điều kiện sinh sống ổn định, yên tâm làm việc lâu dài tại Việt Nam, góp phần thúc đẩy thị trường nhà ở và bất động sản phát triển. Theo Điều 159 Luật nhà ở 2014, đối tượng tổ chức, cá nhân nước ngoài được sở hữu nhà ở tại Việt Nam bao gồm: tổ chức, cá nhân nước ngoài đầu tư xây dựng nhà ở theo dự án tại Việt Nam, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, chi nhánh, văn phòng đại diện của doanh nghiệp nước ngoài, quỹ đầu tư nước ngoài và chi nhánh ngân hàng nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam, cá nhân nước ngoài được phép nhập vào mục đích khác; thực hiện thanh toán tiền mua, thuê mua nhà ở thông qua tổ chức tín dụng đang hoạt động tại Việt Nam.
Tổ chức, cá nhân nước ngoài được sở hữu nhà ở theo thoả thuận trong các giao dịch hợp đồng mua bán, thuê mua, tặng cho, nhận thừa kế nhà ở nhưng tối đa không quá 50 năm, kể từ ngày được cấp hường chứng nhận và có thể được gia hạn thêm theo quy định của Chính phủ. Trước khi hết hạn sở hữu nhà ở, chủ sở hữu có thể tặng cho hoặc bán nhà ở này cho các đối tượng thừa hưởng được sở hữu nhà ở tại Việt Nam. Nếu quá thời hạn được sở hữu nhà ở mà chủ sở hữu không thực hiện bán, tặng cho thì nhà ở đó thuộc sở hữu của nhà nước.
Luật nhà ở 2014 đã mở rộng đối tượng và điều kiện được mua và sở hữu nhà ở tại Việt Nam của tổ chức, cá nhân nước ngoài nhằm thu hút nhân tài, nguồn lực cho đầu tư, phát triển kinh tế, xã hội của đất nước, góp phần thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc tế.
5. Quyền sở hữu của các nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam
Về sở hữu của người nước ngoài thuộc diện đang đầu tư tại Việt Nam, Nhà nước Việt Nam đã ban hành Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam 1987, 2000; Luật đầu tư 2005 và Luật đầu tư 2014. Thông qua các quy định của mình, Nhà nước ta luôn khẳng định vững chắc và nhất quán việc thừa nhận, đảm bảo và bảo vệ quyền sở hữu của các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư trực tiếp vào Việt Nam.
Khoản 3 Điều 5 Luật đầu tư 2014 quy định:
“Nhà nước công nhận và bảo hộ quyền sở hữu về tài sản, vốn đầu tư, thu nhập và các quyền, lợi ích hợp pháp khác của nhà đầu tư”.
Tại Điều 9 quy định về bảo đảm quyền sở hữu tài sản của nhà đầu tư, theo đó:
“1) Tài sản hợp pháp của nhà đầu tư không bị quổc hữu hoá hoặc bị tịch thu bằng biện pháp hành chỉnh;
2) Trường hợp Nhà nước trưng mua, trưng dụng tài sản vì lý do quốc phòng, an ninh hoặc vì lợi ích quốc gia, tình trạng khẩn cấp, phòng, chống thiên tai thì nhà đầu tư được thanh toán, bồi thường theo quy định của pháp luật về trưng mua, trưng dụng tài sản và quy định khác của pháp luật có liên quan ảnh hưởng tới mục tiêu phát triển của Nhà nước.
Luật đầu tư 2014 đã khắc phục được những bất cập của hệ thống Luật đầu tư trong giai đoạn trước và mang lại một cơ chế giải quyết tranh chấp công bằng và minh bạch hơn. Các nhà đầu tư nhận được những đối xử ngang bằng khi xung đột quyền lợi xảy ra. Điều này được quy định tại Điều 14 Luật đầu tư 2014, căn cứ vào chủ thể tranh chấp pháp luật quy định:
- Tranh chấp liên quan đến hoạt động đầu tư kinh doanh tại Việt Nam được giải quyết thông qua thương lượng, hoà giải. Trường hợp không thương lượng hoà giải được thì tranh chấp được giải quyết tại trọng tài hoặc toà án theo quy định của pháp luật.
- Tranh chấp giữa các nhà đầu tư trong nước, tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài hoặc giữa nhà đầu tư trong nựớc, tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài với cơ quan nhà nước có thẩm quyền liên quan đến hoạt động đầu tư trên lãnh thổ Việt Nam được giải quyết thông qua trọng tài hoặc toà án Việt Nam.
- Tranh chấp giữa các nhà đầu tư trong đó có ít nhất một bên là nhà đầu tư nước ngoài hoặc tổ chức kinh tế được giải quyết thông qua một trong những cơ quan, tổ chức sau đây: Toà án Việt Nam; trọng tài Việt Nam; trọng tài nước ngoài; trọng tài quốc tế; trọng tài do các bên tranh chấp thoả thuận thành lập.
- Tranh chấp gữa nhà đầu tư nước ngoài với cơ quan nhà nước có thẩm quyền liên quan đến hoạt động đầu tư kinh doanh trên lãnh thổ Việt Nam được giải quyết thông qua trọng tài Việt Nam hoặc toà án Việt Nam, trừ trường hợp có thoả thuận khác theo hợp đồng hoặc điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác.
Việc hình thành nên một cơ chế giải quyết tranh chấp giữa các chủ thể trong hoạt động đầu tư tại Việt Nam hiện nay được đánh giá là linh hoạt và mang tính tích cực. Các chủ thể có thể lựa chọn một phương thức phù hợp với yêu cầu của mình để giúp bảo vệ quyền lợi một cách tốt nhất.
Luật Minh Khuê (sưu tầm & biên tập)