1. Công nghệ số là gì?

Công nghệ số hay còn gọi là chuyển đổi số, là quá trình thay đổi từ mô hình truyền thống sang ứng dụng công nghệ mới như: dữ liệu lớn (Big Data), điện toán đám mây (Cloud), Internet vạn vật (IoT).

Ở vào thời điểm hiện tại, cuộc cách mạng kỹ thuật số đang định nghĩa lại cạnh tranh và mối quan hệ giữa các doanh nghiệp theo nhiều cách khác nhau. Do đó, việc ứng dụng thành tựu khoa học công nghệ vào quản lý nhà nước, quản trị doanh nghiệp, trong các quan hệ thương mại, dân sự của doanh nghiệp là vấn đề mang tính sống còn không những đối với doanh nghiệp tại Việt Nam mà còn tại nhiều nền kinh tế khác trên thế giới. Theo thống kê, 3 trong số 5 doanh nghiệp có giá trị lớn nhất trên thế giới – Apple, Google và Microsoft – đã xây dựng hoạt động kinh doanh của mình trên các mô hình kinh doanh nền tảng.

Ở nước ta, tính đến thời điểm năm 2019, theo số liệu của Tổng cục Thống kê, có 610.637 doanh nghiệp đang hoạt động có kết quả sản xuất kinh doanh. Với số lượng khá lớn doanh nghiệp đang hoạt động như trên thì việc ứng dụng công nghệ số trong quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp luôn là ưu tiên hàng đầu trong các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.

Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 27/09/2019 của Bộ Chính trị về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã xác định yêu cầu hoàn thiện pháp luật, trước hết là pháp luật về doanh nghiệp, khởi nghiệp sáng tạo, sở hữu trí tuệ, thương mại, đầu tư, kinh doanh để tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình chuyển đổi số quốc gia và phát triển các sản phẩm, dịch vụ, mô hình kinh tế mới dựa trên nền tảng công nghệ số, Internet và không gian mạng; bổ sung một số ngành nghề kinh doanh mới được ưu đãi đầu tư để thúc đẩy tham gia cuộc Cách mạng cônnghiệp lần thứ tư.

Nghị quyết số 50/NQ-CP ngày 17/04/2020 của Chính phủ về Chương trình hành động của Chính phủ để thực hiện Nghị quyết số 52-NQ/TW của Bộ Chính trị cũng đã chính thức giao nhiệm vụ cho Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì và phối hợp với Bộ Tài chính, các bộ, ngành liên quan phải nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật, trước hết là pháp luật về doanh nghiệp, đầu tư, kinh doanh để tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển các mô hình và hoạt động kinh tế mới dựa trên các nền tảng như kinh tế số, kinh tế chia sẻ, kinh tế tuần hoàn, kinh tế dựa trên đổi mới sáng tạo, đồng thời ngăn chặn kịp thời các tác động tiêu cực cả về kinh tế và xã hội.

2. Vai trò của hoạt động ứng dụng công nghệ số đối với doanh nghiệp

Về phía doanh nghiệp, việc ứng dụng công nghệ số đem lại cho doanh nghiệp những lợi ích sau: 

Thứ nhất, xóa bỏ khoảng cách trong quản trị doanh nghiệp. Khi doanh nghiệp ứng dụng công nghệ vào trong quản lý doanh nghiệp, sẽ kết nối các bộ phận trong cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp lại với nhau, giúp cho quá trình thông báo, đưa ra quyết định hoặc xử lý vấn đề được thực hiện một cách nhanh chóng; 

Thứ hai, tăng cường sự minh bạch và hiệu quả trong hệ thống quản trị doanh nghiệp vì một khi các bộ phận trong doanh nghiệp có sự kết nối với nhau thì việc quản lý báo cáo, các khoản thu chi tài chính trong doanh nghiệp sẽ trở nên dễ dàng hơn; 

Thứ ba, giảm chi phí tài chính cho doanh nghiệp, bởi lẽ công nghệ số giúp doanh nghiệp giảm các chi phí tài chính do thực hiện thao tác thủ công truyền thống vốn tốn nhiều thời gian, công sức và tiền bạc của doanh nghiệp, qua đó mang lại giá trị cao hơn cho doanh nghiệp, giúp nâng cao khả năng cạnh tranh cho doanh nghiệp so với những doanh nghiệp không ứng dụng công nghệ hóa.

3. Quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2020 về ứng dụng công nghệ trong thành lập và quản trị doanh nghiệp

Luật Doanh nghiệp (LDN) năm 2020 được ban hành trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam đang hội nhập sâu rộng vào kinh tế thế giới. Các thành tựu khoa học kỹ thuật trong lĩnh vực công nghệ đang ở vào giai đoạn phát triển “chín” nhất và đóng vai trò quan trọng đến doanh nghiệp. Chẳng hạn, Công ty Space X của tỷ phú Elon Musk trình làng công nghệ Internet vệ tinh trong năm 2021, dự kiến sẽ phủ sóng tại Việt Nam trong năm 2022. Theo thống kê, Việt Nam có khoảng 70% dân số sử dụng Internet, là một trong những nước có tốc độ phát triển công nghệ cao nhất thế giới. Năm 2019, chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam đạt mức 0,704, thuộc nhóm nước có HDI cao của thế giới, nhất là so với các nước có cùng trình độ phát triển. Trong bối cảnh đó, việc ban hành mới LDN năm 2020 với những thay đổi thích nghi với sự phát triển của công nghệ trên thế giới là cần thiết. Về cơ bản, LDN năm 2020 có những quy định đột phá trong ứng dụng công nghệ số ở một số nội dung sau:

Thứ nhất, LDN năm 2020 cho phép việc sử dụng dấu doanh nghiệp bằng chữ ký số.

Theo quy định của LDN năm 2020, dấu của doanh nghiệp bao gồm dấu được làm tại cơ sở khắc dấu hoặc dấu dưới hình thức chữ ký số theo quy định của pháp luật về giao dịch điện tử. Doanh nghiệp quyết định loại dấu, số lượng, hình thức và nội dung dấu của doanh nghiệp, chi nhánh, văn phòng đại diện và đơn vị khác của doanh nghiệp.

Có thể nói, từ năm 2021, các doanh nghiệp tại Việt Nam có thể không cần dùng đến dấu theo dạng thức truyền thống, dấu khắc bằng đồng hoặc bằng cao su, tốn kém chi phí tài chính không nhỏ. Theo ước tính, trung bình để khắc một con dấu bằng đồng hoặc bằng cao su tại Tp. Hồ Chí Minh thì doanh nghiệp phải tốn từ 500.000 đồng đến – 700.000 đồng/dấu. Thay vào đó, doanh nghiệp có thể sử dụng dấu dưới dạng chữ ký số - một dạng thức giao dịch điện tử. Theo khoản 6 Điều 3 Nghị định số 130/2018/NĐ-CP do Chính phủ ban hành ngày 27/09/2018 về quy định chi tiết thi hành Luật Giao dịch điện tử năm 2005, chữ ký số là một dạng chữ ký điện tử được tạo ra bằng sự biến đổi một thông điệp dữ liệu sử dụng hệ thống mật mã không đối xứng; theo đó, người có được thông điệp dữ liệu ban đầu và khóa công khai của người ký có thể xác định được chính xác. Về hình thức, chữ ký điện tử được tạo lập dưới dạng từ, chữ, số, ký hiệu, âm thanh hoặc các hình thức khác bằng phương tiện điện tử, gắn liền hoặc kết hợp một cách lô gích với thông điệp dữ liệu, có khả năng xác nhận người ký thông điệp dữ liệu và xác nhận sự chấp thuận của người đó đối với nội dung thông điệp dữ liệu được ký.

Việc cho phép doanh nghiệp sử dụng chữ ký số thay cho dấu doanh nghiệp không những làm giảm chi phí gia nhập thị trường cho doanh nghiệp, mà còn bắt nhịp với sự thay đổi công nghệ số đang phát triển mạnh trên toàn cầu. Ngoài ra, quy định trên phản ánh nỗ lực cải cách thể chế môi trường kinh doanh, hướng đến xây dựng một nền kinh tế dựa trên công nghệ 4.0 mà Chính phủ Việt Nam đang triển khai thực hiện là một thực tế khách quan không thể đảo ngược được trong thời đại công nghệ số hiện nay.

Thứ hai, LDN năm 2020 cho phép công ty cổ phần gửi thông báo mời họp Đại hội đồng cổ đông bằng đa phương thức, trong đó có ứng dụng công nghệ.

Trước năm 2021, theo quy định của khoản 1 và khoản 2 Điều 139 LDN năm 2014,  người triệu tập họp Đại hội đồng cổ đông (ĐHĐCĐ) phải gửi thông báo mời họp đến tất cả các cổ đông trong Danh sách cổ đông có quyền dự họp chậm nhất 10 ngày trước ngày khai mạc, nếu Điều lệ công ty không quy định thời hạn dài hơn…. Thông báo được gửi bằng phương thức bảo đảm đến được địa chỉ liên lạc của cổ đông.Về phía công ty, nếu không tuân thủ quy định trên thì nghị quyết của ĐHĐCĐ có thể bị cổ đông/nhóm cổ đông sở hữu ít nhất 10% tổng số cổ phần phổ thông trong 6 tháng liên tục nộp đơn yêu cầu tòa án hoặc trọng tài hủy bỏ.

Với quy định trên, tất cả các công ty cổ phần tại Việt Nam đều phải gửi thông báo mời họp ĐHĐCĐ đến các cổ đông có quyền biểu quyết qua đường bưu chính có dán tem, tống đạt trực tiếp đến cho cổ đông mặc dù các công ty này có thể gửi thông báo mời họp ĐHĐCĐ đến cổ đông bằng các phương thức khác như thư điện tử, fax, tin nhắn,… Song, điều quan trọng nhất, nhằm đảm bảo tính hợp pháp cho cuộc họp ĐHĐCĐ thì các công ty cổ phần đều phải gửi thông báo mời họp bằng thư bảo đảm, tốn kém chi phí tài chính không ít cho họ. Ở các công ty đại chúng có quy mô lớn như: Công ty ty cổ phần Sữa Việt Nam (Vinamilk), Ngân hàng Thương mại cổ phần Sài Gòn Thương tín (Sacombank) hay Công ty cổ phần Khí Việt Nam (PV Gas)… vốn có số lượng cổ đông cá nhân nhỏ lẻ trong và ngoài nước rất lớn thì quy định tại khoản 2 Điều 139 LDN năm 2014 về gửi thông báo mời họp ĐHĐCĐ bằng phương thức bảo đảm đã gây tốn kém chi phí tài chính lớn cho các công ty này.

Tuy nhiên, từ năm 2021, theo quy định của khoản 2 Điều 143 LDN năm 2020, thông báo mời họp ĐHĐCĐ được gửi bằng phương thức để bảo đảm đến được địa chỉ liên lạc của cổ đông và đăng trên trang thông tin điện tử của công ty.Theo đó, các công ty cổ phần tại Việt Nam có thể gửi thông báo mời họp ĐHĐCĐ bằng đa phương thức như qua đường bưu chính, qua thư điện tử, qua điện thoại, qua fax, email, zalo, viber…, tất cả đều có giá trị pháp lý như nhau. Có thể nói rằng, quy định của khoản 2 Điều 143 LDN năm 2020 có ý nghĩa tích cực cả về phương diện ứng dụng công nghệ và tài chính, đáp ứng được yêu cầu đổi mới công nghệ số trong quản trị doanh nghiệp, tiết giảm được các chi phí tài chính và gia tăng hiệu quả cho hoạt động của doanh nghiệp.

Thứ ba, LDN năm 2020 bổ sung quy định cho phép thành viên hội đồng quản trị (HĐQT) được tham dự và biểu quyết tại các cuộc họp HĐQT thông qua hội nghị trực tuyến, bỏ phiếu điện tử hoặc hình thức điện tử khác.

Trước năm 2021, theo quy định của LDN 2014, thành viên HĐQT của công ty cổ phần tham gia dự họp và biểu quyết tại cuộc họp HĐQT thông qua 4 hình thức: trực tiếp; ủy quyển cho người khác; hội nghị trực tuyến hoặc hình thức tương tự khác; gửi phiếu biểu quyết đến cuộc họp thông qua thư, fax, thư điện tử. Tuy nhiên, bên cạnh bổ sung hình thức tham dự họp và biểu quyết khác quy định tại Điều lệ công ty, LDN năm 2020 còn bổ sung quy định cho phép các thành viên HĐQT được tham dự họp biểu quyết thông qua hội nghị trực tuyến, bỏ phiếu điện tử hoặc hình thức điện tử khác (khoản 9 Điều 157).Quy định của LDN năm 2020 có ý nghĩa quan trọng, phù hợp với thực tiễn ứng dụng công nghệ vào quản trị doanh nghiệp ở nước ta hiện nay. Đặc biệt, trong điều kiện đại dịch Covid–19 bùng phát, việc ứng dụng công nghệ số cho các cuộc họp ĐHĐCĐ hoặc của HĐQT, vào việc thông qua quyết định, lấy ý kiến của cổ đông, của các nhà quản lý doanh nghiệp để ra các quyết sách liên quan đến hoạt động kinh doanh đã giúp cho các doanh nghiệp quản trị hiệu quả hơn, giảm bớt thời gian, chi phí tài chính.

Luật Công nghệ thông tincó vị trí quan trọng, quy định những điều kiện thiết yếu để bảo đảm phát triển công nghiệp công nghệ thông tin thành một ngành kinh tế mũi nhọn, đóng góp đáng kể và ngày càng tăng cho GDP, đồng thời đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong tất cả các lĩnh vực, các ngành, các cấp, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý, đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế - xã hội. Các quy định về quản lý, cấp phép, đăng ký được quy định ở mức tối thiểu và cần thiết nhằm tạo ra môi trường rõ ràng, minh bạch và lành mạnh nhằm thúc đẩy các các hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin và phát triển công nghiệp công nghệ thông tin phù hợp với xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước.

4. Nội dung của Luật Công nghệ thông tin

Luật Công nghệ thông tin gồm 6 chương, 79 điều, cụ thể như sau:

Chương I. Những quy định chung

Những quy định chung gồm 12 điều.

Nội dung của Chương này quy định những vấn đề về phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng, áp dụng luật, giải thích từ ngữ, chính sách của nhà nước về công nghệ thông tin, nội dung quản lý nhà nước cũng như trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước về công nghệ thông tin, quyền và trách nhiệm của tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin, thanh tra công nghệ thông tin, hiệp hội công nghệ thông tin và các hành vi bị nghiêm cấm.

Chương II. Ứng dụng công nghệ thông tin 

Ứng dụng công nghệ thông tin gồm 24 điều và được quy định thành 4 mục.

Các quy định của Chương này tạo hành lang pháp lý cơ bản để thúc đẩy các hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin trong mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội.

Mục 1 quy định những vấn đề chung nhất về ứng dụng công nghệ thông tin trên môi trường mạng. Mục 2, mục 3 quy định cụ thể về ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của cơ quan nhà nước và trong thương mại vì đây là hai nội dung trọng tâm nhằm thúc đẩy hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin. Mục 4 quy định về ứng dụng công nghệ thông tin trong một số lĩnh vực như giáo dục- đào tạo, y tế, văn hóa thông tin, quốc phòng, an ninh và một số lĩnh vực khác.

Mục 1. Quy định chung về ứng dụng công nghệ thông tin -  quy định về nguyên tắc hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin; ưu tiên ứng dụng công nghệ thông tin trong trường hợp khẩn cấp; quyền, nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc quản lý, sử dụng, truyền đưa thông tin số; lưu trữ tạm thời thông tin số; cho thuê chỗ lưu trữ thông tin số; công cụ tìm kiếm thông tin số; thu thập, xử lý, sử dụng, lưu trữ, cung cấp thông tin cá nhân trên môi trường mạng; thiết lập trang thông tin điện tử.

Với các quy định cơ bản như vậy đã bảo đảm để các tổ chức, cá nhân được tự do hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin trong các ngành, lĩnh vực mà pháp luật không cấm. Đối với một số ngành, lĩnh vực nhất định phải tuân thủ quy định của Luật này và quy định khác của pháp luật có liên quan.  Một nội dung đáng chú ý trong Luật là tổ chức, cá nhân sử dụng tên miền quốc gia Việt Nam “.vn” khi thiết lập trang thông tin điện tử không cần thông báo với Bộ Bưu chính - Viễn thông. Trường hợp tổ chức, cá nhân khi thiết lập trang thông tin điện tử không sử dụng tên miền quốc gia Việt Nam “.vn” thì cần thông báo trên môi trường mạng với cơ quan quản lý.

Mục 2. Ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của cơ quan nhà nước- tạo ra khung pháp lý quan trọng đẩy mạnh “chính phủ điện tử” ở Việt Nam. Luật quy định về nguyên tắc, điều kiện, nội dung ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của cơ quan nhà nước; hoạt động của cơ quan nhà nước trên môi trường mạng; trang thông tin điện tử của cơ quan nhà nước.

Mục 3. Ứng dụng công nghệ thông tin trong thương mại nhằm khẳng định mọi tổ chức, cá nhân có quyền tham gia hoạt động thương mại trên môi trường mạng. Mục này quy định về đối tượng, nguyên tắc ứng dụng công nghệ thông tin trong thương mại; trang thông tin điện tử bán hàng, cung cấp thông tin cho việc giao kết hợp đồng trên môi trường mạng; giải quyết hậu quả do lỗi nhập sai thông tin thương mại trên môi trường mạng; thanh toán trên môi trường mạng.

Mục 4. Ứng dụng công nghệ thông tin trong một số lĩnh vực như giáo dục, y tế, văn hóa, quốc phòng, an ninh, .... Ứng dụng công nghệ thông tin trong những lĩnh vực chuyên ngành ngoài việc tuân thủ quy định của Luật Công nghệ thông tin, còn phải tuân thủ pháp luật chuyên ngành có liên quan.

Chương III. Phát triển công nghệ thông tin với 16 điều được chia thành 4 mục.

Mục 1. Quy định về nghiên cứu- phát triển công nghệ thông tin; cơ sở vật chất, kỹ thuật phụ vụ cho hoạt động nghiên cứu- phát triển công nghệ thông tin; tiêu chuẩn, chất lượng trong hoạt động ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin.

Mục 2. Quy định về phát triển nguồn nhân lực công nghệ thông tin bao gồm chính sách phát triển; chứng chỉ công nghệ thông tin; sử dụng nhân lực và phổ cập kiến thức công nghệ thông tin.

Mục 3. Quy định về phát triển công nghiệp công nghệ thông tin  trong đó xác định rõ loại hình hoạt động công nghiệp công nghệ thông tin; chính sách phát triển công nghiệp công nghệ thông tin; phát triển thị trường công nghiệp công nghệ thông tin; sản phẩm công nghệ thông tin trọng điểm; khu công nghệ thông tin tập trung.

Mục 4. Quy định phát triển dịch vụ công nghệ thông tin bao gồm loại hình và chính sách phát triển dịch vụ công nghệ thông tin.

Chương IV. Các biện pháp bảo đảm ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin 

Các biện pháp bảo đảm ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin gồm 21 điều được chia thành 4 mục.

Mục 1. Cơ sở hạ tầng thông tin cho ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin - quy định về nguyên tắc phát triển cơ sở hạ tầng thông tin; bảo đảm cơ sở hạ tầng thông tin phục vụ ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin; cơ sở hạ tầng thông tin phục vụ các cơ quan nhà nước; cơ sở hạ tầng thông tin phục vụ công ích; cơ sở dữ liệu của bộ, ngành, địa phương; bảo vệ cơ sở hạ tầng thông tin.

Mục 2. Đầu tư cho công nghệ thông tin. Đây là nội dung quan trọng nhằm thúc đẩy phát triển công nghệ thông tin. Mục này quy định cụ thể về Đầu tư của tổ chức, cá nhân cho công nghệ thông tin; đầu tư của nhà nước cho công nghệ thông tin; đầu tư cho sự nghiệp ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin; đầu tư và phát triển công nghệ thông tin phục vụ nông nghiệp và nông thôn.

Mục 3. Hợp tác quốc tế về công nghệ thông tin - quy định nguyên tắc, nội dung hợp tác quốc tế về công nghệ thông tin nhằm tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế mở rộng hợp tác về công nghệ thông tin với tổ chức, cá nhân nước ngoài, thúc đẩy sự phát triển công nghệ thông tin Việt Nam đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập kinh tế quốc tế.

Mục 4. Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp và hỗ trợ người sử dụng sản phẩm, dịch vụ công nghệ thông tin. Mục này quy định về trách nhiệm của nhà nước, xã hội trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng; bảo vệ tên miền quốc gia; bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ trong lĩnh vực công nghệ thông tin; chống thư rác, vi rút máy tính và phần mềm gây hại; bảo vệ trẻ em tránh những thông tin tiêu cực; bảo đảm an toàn, bí mật thông tin; hỗ trợ người tàn tật trong ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin.

Chương V. Giải quyết tranh chấp và xử lý vi phạm gồm 3 điều quy định mang tính nguyên tắc hình thức và thẩm quyền giải quyết tranh chấp công nghệ thông tin nói chung và tranh chấp về đăng ký, sử dụng tên miền quốc gia Việt Nam “.vn”; xử lý vi phạm pháp luật về công nghệ thông tin.

Chương VI. Điều khoản thi hành 

Điều khoản thi hành gồm 2 điều quy định về hiệu lực thi hành, trách nhiệm của Chính phủ qui định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Công nghệ thông tin.

5. Vai trò của Luật Công nghệ thông tin

Luật Công nghệ thông tin là công cụ để tạo hành lang pháp lý quan trọng cho việc thực hiện mục tiêu hình thành, phát triển xã hội thông tin, rút ngắn quá trình thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và trước mắt để thực thi có hiệu quả các nội dung cơ bản của chiến lược phát triển công nghệ thông tin và truyền thông Việt Nam mà Thủ tướng Chính phủ vừa ban hành.

Bên cạnh đó, Luật Công nghệ thông tin là cơ sở pháp lý quan trọng để xác định rõ trách nhiệm quản lý nhà nước về Công nghệ thông tin của Chính phủ, các bộ, ngành và Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương để bảo đảm sự phân công, phối hợp, tổ chức thực hiện hiệu quả chiến lược phát triển Công nghệ thông tin.

Luật Công nghệ thông tin có vị trí quan trọng, quy định những điều kiện thiết yếu để bảo đảm phát triển công nghiệp công nghệ thông tin thành một ngành kinh tế mũi nhọn, đóng góp đáng kể và ngày càng tăng cho GDP, đồng thời đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong tất cả các lĩnh vực, các ngành, các cấp, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý, đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế - xã hội. Các quy định về quản lý, cấp phép, đăng ký được quy định ở mức tối thiểu và cần thiết nhằm tạo ra môi trường rõ ràng, minh bạch và lành mạnh nhằm thúc đẩy các các hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin và phát triển công nghiệp công nghệ thông tin phù hợp với xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước.