1. Mở đầu vấn đề 

Quy định về điều tra và truy tố trong các quy tắc Bắc kinh (Các quy tắc tiêu chuẩn tối thiểu của Liên hợp quốc về hoạt động tư pháp đối với người vị thành niêm, 1985) được thông qua theo Nghị quyết 40/33 ngày 29/11/1985 của Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc. 

Quy định về điều tra và truy tố trong các quy tắc Bắc kinh (Các quy tắc tiêu chuẩn tối thiểu của Liên hợp quốc về hoạt động tư pháp đối với người vị thành niêm, 1985) được quy định tại phân II của Quy tắc này, cụ thể chúng được quy định như sau:

 

2. Tiếp xúc bước đầu

a. Trong những trường hợp bắt giam người chưa thành niên, cha mẹ hay người giám hộ người chưa thành niên đó phải được thông báo ngay về sự bắt giữ đó. Trong những trường hợp không thể thông báo ngay thì cha mẹ hay người giám hộ người chưa thành niên đó phải được thông báo trong thời gian sớm nhất có thể sau khi bắt giữ.

b. Một thẩm phán hay một cán bộ hoặc một cơ quan có thẩm quyền phải xem xét không chậm trễ vấn đề trả tự do cho người bị bắt giữ đó.

c. Sự tiếp xúc giữa những cơ quan thực hiện pháp luật và người chưa thành niên phạm tội phải được thực hiện theo cách tôn trọng địa vị pháp lý của người chưa thành niên, tăng cường phúc lợi cho người chưa thành niên và tránh làm tổn hại đến các em, trên cơ sở có xem xét thỏa đáng đến hoàn cảnh của vụ án.

Diễn giải

Quy tắc 10.1 của Điều 10 về cơ bản đã có trong Quy tắc 92 của Các Quy tắc tiêu chuẩn tối thiểu về đối xử với tù nhân.

Vấn đề trả tự do (Quy tắc 10.2) phải được xem xét không chậm trễ bởi một thẩm phán hay một cán bộ có thẩm quyền khác. “Cán bộ có thẩm quyền” ở đây có nghĩa là bất cứ người nào hay cơ quan nào, theo nghĩa rộng nhất của thuật ngữ này, gồm những hội đồng trong cộng đồng hay cơ quan cảnh sát có quyền trả tự do cho người bị bắt (xem mục 3, Điều 9 của Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị).

Quy tắc 10.3 điều 10 đề cập đến một số khía cạnh cơ bản liên quan đến những thủ tục và hành vi từ phía cảnh sát và các cán bộ thực thi pháp luật khác trong vụ án liên quan đến người chưa thành niên phạm tội. Để “tránh gây tổn hại” là một thuật ngữ mềm dẻo bao hàm nhiều đặc điểm của tác động qua lại có thể xảy ra (ví dụ như sử dụng ngôn ngữ thô thiển, xâm phạm thân thể... ). Bản thân việc có liên quan đến các quá trình tư pháp đã có thể gây “tổn hại” cho người chưa thành niên. Vì vậy, thuật ngữ “tránh gây tổn hại” cần được giải thích rộng rãi là gây ra ít tổn hại nhất có thể có ngay từ ban đầu cũng như về sau hoặc các tổn hại không đáng có đối với người chưa thành niên. Điều này đặc biệt quan trọng trong lần tiếp xúc đầu tiên với các cơ quan thực thi pháp luật, có thể gây ảnh hưởng sâu sắc đến thái độ của người chưa thành niên đối với nhà nước và xã hội. Hơn nữa, thành công của bất cứ sự can thiệp sâu hơn nào cũng phụ thuộc phần lớn vào những tiếp xúc đầu tiên như vậy. Trong những trường hợp này, tình thương và thái độ cương quyết, đúng đắn là rất quan trọng.

 

3. Các biện pháp thay thế chế tài hình sự

a. Bất cứ khi nào thích hợp, phải xem xét về việc xử lý người chưa thành niên phạm tội mà không phải đưa ra xét xử chính thức bởi các cơ quan có thẩm quyền, như được đề cập đến trong Quy tắc 14.1 của Quy tắc dưới đây.

b. Cảnh sát, cơ quan công tố hay những cơ quan khác có trách nhiệm giải quyết những vụ án liên quan đến người chưa thành niên cần được toàn quyền xử lý những vụ án như vậy mà không dùng đến những phiên tòa chính thức, theo tiêu chuẩn đã được định ra cho mục đích đó trong từng hệ thống pháp luật và theo các nguyên tắc đã được nêu trong văn kiện này.

c. Bất cứ biện pháp thay thế trách nhiệm hình sự liên quan đến việc chuyển giao cho các tổ chức cộng đồng hay các cơ quan thích hợp khác đều phải có sự đồng ý của người chưa thành niên hoặc của cha mẹ hay người giám hộ của người đó, với điều kiện là quyết định chuyển giao vụ án như vậy phải được một cơ quan có thẩm quyền xem xét trước khi được thi hành.

d. Để tạo điều kiện cho việc thực hiện quyền quyết định đối với các vụ án liên quan đến người chưa thành niên, cần phải giám sát và hướng dẫn tạm thời đối với các chương trình cộng đồng, cũng như quan tâm đến việc đền bù cho nạn nhân.

Diễn giải

Việc sử dụng các biện pháp thay thế trách nhiệm hình sự, thông thường là chuyển giao cho các tổ chức hỗ trợ ở cộng đồng, được áp dụng rộng rãi trên cơ sở chính thức và không chính thức trong nhiều hệ thống pháp luật. Việc này nhằm ngăn chặn những ảnh hưởng tiêu cực của các thủ tục tố tụng tiếp theo trong áp dụng tư pháp đối với người chưa thành niên (ví dụ người chưa thành niên phạm tội sẽ phải chịu một vết nhơ khi bị buộc tội và tuyên án). Trong nhiều trường hợp, cách giải quyết tốt nhất là không có sự can thiệp của tòa án. Vì vậy, việc sử dụng các biện pháp thay thế trách nhiệm hình sự ngay từ đầu và không chuyển giao cho những tổ chức (xã hội) khác có thể là cách tối ưu. Đặc biệt trong trường hợp hành vi phạm tội không mang tính chất nghiêm trọng, và gia đình, nhà trường hoặc những tổ chức quản lý xã hội không chính thức khác đã có cách xử lý hoặc có khả năng xử lý theo một hướng phù hợp và mang tính xây dựng.

Như đã đề cập đến trong Quy tắc 11.2 Điều 11, việc sử dụng các biện pháp thay thế trách nhiệm hình sự có thể được thực hiện ở bất cứ giai đoạn ra quyết định nào của cảnh sát, cơ quan công tố hay những cơ quan khác như tòa án, cơ quan xử lý, các ban hoặc hội đồng. Việc này có thể do một hoặc vài hay tất cả các nhà chức trách thực hiện theo những nguyên tắc và chính sách của từng hệ thống, và phù hợp với các quy tắc được nêu trong văn kiện này. Không nhất thiết phải hạn chế việc sử dụng các biện pháp thay thế trách nhiệm hình sự chỉ với những vụ việc nhỏ, điều này sẽ giúp cho việc sử dụng các biện pháp thay thế trách nhiệm hình sự trở thành một công cụ quan trọng

Quy tắc 11.3 của điều 11 nhấn mạnh yêu cầu quan trọng của việc bảo đảm sự đồng ý của người thanh thiếu niên (hay của cha mẹ hoặc người giám hộ) đối với các biện pháp thay thế trách nhiệm hình sự được kiến nghị (Việc chuyển giao cho các tổ chức cộng đồng mà không có sự đồng ý của thanh thiếu niên phạm tội sẽ vi phạm Công ước về xóa bỏ lao động cưỡng bức). Tuy nhiên, sự đồng ý này không phải là không thể thay đổi, vì có thể nó được đưa ra trong tình cảnh quẫn bách từ phía người chưa thành niên. Quy tắc này nhấn mạnh cần có sự quan tâm chăm sóc để giảm thiểu khả năng tiềm tàng của sự ép buộc và đe dọa ở tất cả các cấp trong quá trình sử dụng các biện pháp thay thế trách nhiệm hình sự. Người chưa thành niên phải cảm thấy không bị ép buộc (ví dụ như để tránh việc ra trước tòa) hoặc bị ép buộc đồng ý với các biện pháp thay thế khác. Vì vậy, đánh giá tính thích hợp của việc sử dụng các biện pháp thay thế trách nhiệm hình sự liên quan đến thanh thiếu niên phạm tội do “một cơ quan có thẩm quyền” tiến hành là điều được ủng hộ (“Cơ quan có thẩm quyền” có thể khác với cơ quan nói đến trong Quy tắc 14).

Quy tắc 11.4 của điều 11 khuyến nghị việc đưa ra những phương thức xử lý thay thế quá trình xét xử tư pháp đối với người chưa thành niên dưới hình thức dựa vào cộng đồng. Những chương trình có liên quan đến việc giải quyết bằng bồi thường cho người bị hại hay những chương trình giúp tránh tái phạm thông qua sự giám sát và hướng dẫn tạm thời, được tán thành. Những tình tiết cụ thể của từng vụ án sẽ giúp xác định việc áp dụng các biện pháp thay thế trách nhiệm tư pháp có phù hợp hay không (ví dụ trong trường hợp vi phạm lần đầu hay bị lôi kéo bởi bạn bè).

 

4. Vấn đề chuyên môn hóa trong lực lượng cảnh sát

Để hoàn thành chức năng của mình một cách tốt nhất, các nhân viên cảnh sát, những người thường xuyên hoặc chuyên giải quyết những vấn đề liên quan tới người chưa thành niên hoặc những người chủ yếu được giao nhiệm vụ ngăn chặn tội phạm ở người chưa thành niên, phải được hướng dẫn và đào tạo một cách đặc biệt. Ở những thành phố lớn, cần thành lập những đơn vị cảnh sát đặc biệt chuyên giải quyết những trường hợp liên quan tới người chưa thành niên.

Diễn giải

Quy tắc 12 tập trung chú ý vào yêu cầu đào tạo chuyên sâu đối với tất cả các cán bộ thực thi pháp luật, những người làm công tác tư pháp liên quan đến người chưa thành niên. Điều quan trọng nhất đối với các cảnh sát là phải nắm đầy đủ các thông tin và hành động theo một phương thức thích hợp vì cảnh sát là điểm tiếp xúc đầu tiên trong hệ thống tư pháp dành cho người chưa thành niên.

Trong khi mối quan hệ giữa vấn đề đô thị hóa và tình hình tội phạm thật sự phức tạp, thì tình hình người chưa thành niên phạm tội tăng lên gắn liền với sự phát triển của các thành phố lớn, nhất là sự phát triển nhanh chóng và không có kế hoạch. Vì vậy, những đơn vị cảnh sát đặc biệt đóng vai trò không thể thiếu được, không chỉ vì mục đích thực hiện những nguyên tắc cụ thể trong văn kiện này (như Quy tắc 1.6), mà còn vì mục đích lớn hơn, đó là cải thiện việc ngăn ngừa và kiểm soát tội phạm ở người chưa thành niên và xử lý người chưa thành niên phạm tội.

 

5. Tạm giam chờ xét xử

a. Hình thức tạm giam chờ xét xử được sử dụng đến như một phương kế cuối cùng và chỉ trong thời gian ngắn nhất có thể.

b. Bất cứ khi nào có thể, hình thức tạm giam chờ xét xử cần được thay thế bằng những phương pháp khác như giám sát chặt chẽ, chăm sóc đặc biệt hoặc đưa về sống với gia đình hay tại một trung tâm giáo dục hoặc tại nhà.

c. Người chưa thành niên, trong thời gian bị tạm giam chờ xét xử phải được hưởng tất cả các quyền và sự bảo đảm của Các Quy tắc tiêu chuẩn tối thiểu về đối xử với tù nhân do Liên Hợp Quốc thông qua.

d. Người chưa thành niên bị tạm giam chờ xét xử phải được giam giữ tách riêng khỏi người lớn, giam giữ trong một trại giam riêng biệt hay trong một khu riêng của một trại giam có giam cả người lớn.

e. Trong khi bị giam giữ, người chưa thành niên phải được bảo vệ, chăm sóc và được nhận tất cả những sự giúp đỡ riêng cần thiết về mặt xã hội, giáo dục dạy nghề, tâm lý, y tế và thể chất mà các em có thể cần tùy theo tuổi tác, giới tính và cá tính.

Diễn giải

Không được đánh giá thấp mối nguy hiểm “tiêm nhiễm tội phạm” đối với người chưa thành niên trong khi bị giam chờ xét xử. Vì vậy, cần phải nhấn mạnh sự cần thiết phải có các biện pháp thay thế khác. Theo hướng này, Quy tắc 13.1 khuyến khích tìm ra những biện pháp mới, có tính đổi mới để tránh hình phạt giam giữ, vì phúc lợi của người chưa thành niên.

Người chưa thành niên đang trong thời gian tạm giam chờ xét xử có quyền hưởng tất cả các quyền và các bảo đảm được quy định trong Các Quy tắc tiêu chuẩn tối thiểu về đối xử với tù nhân cũng như của Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị, đặc biệt là điều 9 và các khoản 2 (b) và 3 của Điều 10.

Quy tắc 13.4 điều 13 không ngăn cản các quốc gia tiến hành những biện pháp khác chống lại các ảnh hưởng tiêu cực của những người phạm tội thành niên, những biện pháp đó ít ra cũng có hiệu quả như những biện pháp nói đến trong Quy tắc này.

Những hình thức hỗ trợ khác nhau có thể cần thiết cho người phạm tội chưa thành niên cũng đã được liệt kê nhằm hướng sự quan tâm đến hàng loạt nhu cầu riêng của những người chưa thành niên bị giam giữ (ví dụ như nam giới hay nữ giới, người nghiện ma túy, nghiện rượu, người chưa thành niên bị mắc bệnh tâm thần, thanh thiếu niên bị tổn thương do bị giam giữ…).

Những đặc điểm tâm lý và thể chất khác nhau của trẻ em bị giam giữ có thể lý giải cho sự cần thiết phải có các biện pháp phân loại, mà theo đó một số trẻ em phải được giam giữ riêng trong thời gian bị giam giữ chờ xét xử, nhờ đó góp phần tránh được tình trạng người chưa thành niên bị giam giữ trở thành người bị hại và nhận được sự giúp đỡ hợp lý hơn.

Trong Nghị quyết số 4 về những tiêu chuẩn tư pháp đối với người chưa thành niên được thông qua tại Hội nghị lần thứ VI của Liên Hợp Quốc về phòng ngừa tội phạm và xử lý người phạm tội đã ghi rõ những Quy tắc này cần phản ánh được nguyên tắc cơ bản là việc giam giữ trước khi xét xử chỉ được sử dụng đến như một phương pháp cuối cùng, và không được giam giữ người chưa thành niên ở những cơ sở giam giữ dễ bị ảnh hưởng tiêu cực của các phạm nhân đã thành niên, đồng thời cần phải xem xét đến những nhu cầu đặc biệt đối với giai đoạn phát triển của các em.

 

(MK LAW FIRM: Bài viết được đăng tải nhằm mục đích giáo dục, phổ biến, tuyên truyền pháp luật và chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước không nhằm mục đích thương mại. Thông tin nêu trên chỉ có giá trị tham khảo vì vậy Quý khách khi đọc thông tin này cần tham khảo ý kiến luật sư, chuyên gia tư vấn trước khi áp dụng vào thực tế.)

Trên đây là nội dung Luật Minh Khuê đã sưu tầm và biên soạn. Trường hợp trong nội dung tư vấn có điều gì gây nhầm lẫn, chưa rõ ràng hoặc thông tin nêu trong nội dung tư vấn khiến quý khách chưa hiểu hết vấn đề hoặc/ và có sự vướng ngại, thắc mắc, chúng tôi rất mong nhận được ý kiến phản hồi của quý khách hàng. Mọi vướng mắc bạn vui lòng trao đổi trực tiếp với bộ phận luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài gọi số: 1900.6162 hoặc liên hệ văn phòng để nhận được sự tư vấn, hỗ trợ từ Luật Minh Khuê.

Rất mong nhận được sự hợp tác!

Trân trọng!

Luật Minh Khuê (Sưu tầm và biên tập).