1. Bản cáo trạng – căn cứ để truy tố bị can

Quyết định truy tố là một trong những nhiệm vụ, quyền hạn của chính VKSND. Theo đó, Viện kiểm sát quyết định truy tố bị can trước Tòa án bằng bản cáo trạng. Đó là một văn bản TTHS chỉ do Viện kiểm sát là cơ quan duy nhất có chức năng thực hành quyền công tố ban hành, có giá trị pháp lý và ý nghĩa cáo buộc bị can về những hành vi phạm tội được quy định trong BLHS. Cáo trạng đánh dấu kết thúc một giai đoạn tố tụng và chuyển sang giai đoạn tố tụng mới, tạo cơ sở pháp lý và căn cứ để Tòa án thực hiện đúng và đầy đủ chức năng xét xử. Nói cách khác, cáo trạng của Viện kiểm sát là tiền đề làm phát sinh chức năng xét xử của Tòa án. Nội dung của bản cáo trạng là căn cứ xác định giới hạn xét xử sơ thẩm của Tòa án. Việc truy tố kịp thời, chính xác của Viện kiểm sát tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động xét xử, đảm bảo xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

2. Đặc trưng của bản cáo trạng

Từ khái niệm trên có thể rút ra một số đặc trưng của bản cáo trạng như sau:

2.1 Cáo trạng thể hiện được tính quyền lực và công lý

Ngoài Viện kiểm  sát ra thì không có cơ quan nhà nước nào có thể thay thế để ban hành cáo trạng truy cứu TNHS bị can ra trước Tòa án. Vì vậy, nếu không có sự buộc tội của Viện kiểm sát thì không có hoạt động xét xử của Tòa án. Việc ban hành cáo trạng truy tố bị can ra trước Tòa án là căn cứ làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của Tòa án trong việc xét xử người phạm tội, xác định giới hạn xét xử vụ án hình sự. Bên cạnh đó, tính công lý của cáo trạng thể hiện ở sự công bằng, bình đẳng trước pháp luật khi mọi hành vi gây nguy hiểm đáng kể cho xã hội xâm phạm đến các khách thể được luật hình sự bảo vệ đều phải bị điều tra, truy tố và xét xử kịp thời, nghiêm minh.

2.2 Cáo trạng phải đảm bảo tính có căn cứ và hợp pháp

Nếu cáo trạng không đảm bảo tính có căn cứ, hợp pháp thì không thể buộc tội bị can. Tính có căn cứ của cáo trạng thể hiện ở nội dung cáo trạng phải phù hợp với chứng cứ đã thu thập theo trình tự, thủ tục do BLTTHS quy định. Tính hợp pháp của cáo trạng yêu cầu việc truy tố phải đúng người phạm tội, theo đúng tội danh, tránh những trường hợp có sai lầm về nhận thức, đánh giá chứng cứ không đúng tội phạm đã thực hiện, sai lầm trong việc áp dụng pháp luật hoặc vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng dẫn đến việc truy tố oan, sai. Ngoài ra, nội dung của cáo trạng phải phân tích rõ các dấu hiệu định tội, tình tiết định khung để áp dụng chính xác pháp luật trong việc truy tố. Ba là, cáo trạng truy tố phải thể hiện đúng chính sách hình sự và phân hóa TNHS. Đây là đặc trưng không thể thiếu đối với cáo trạng, vì các lập luận trong nội dung cáo trạng cũng như trong phần kết luận tội trạng của bị can phải thể hiện đúng chính sách hình sự được quy định tại Điều 3 BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 và phân hóa TNHS được quy định tại các Điều 8, 9, 12, 14, 15, 16 và 17 BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Về nội dung và hình thức của cáo trạng phải tuân thủ đúng quy định của pháp luật TTHS và mẫu của VKSND tối cao ban hành. Bản cáo trạng ghi rõ diễn biến hành vi phạm tội; những chứng cứ xác định hành vi phạm tội của bị can, thủ đoạn, động cơ, mục đích phạm tội, tính chất, mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra; việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế; những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS, đặc điểm nhân thân của bị can; việc thu giữ, tạm giữ tài liệu, đồ vật và xử lý vật chứng; nguyên nhân và điều kiện dẫn đến hành vi phạm tội và các tình tiết khác liên quan đến vụ án. Bản cáo trạng phải phản ánh đầy đủ và trung thực nội dung vụ án đã được điều tra, thu thập và thể hiện trong hồ sơ vụ án cùng với các bút lục hồ sơ cụ thể. Do vậy khi xây dựng cáo trạng đòi hỏi phải vận dụng tổng hợp các kiến thức khoa học xã hội và pháp lý để phản ánh một cách ngắn gọn, nhưng đầy đủ, toàn diện nội dung vụ án.

2.3 Bản cáo trạng phải thể hiện động cơ, mục đích phạm tội của người thực hiện hành vi phạm tội

Đây là vấn đề thuộc về ý thức chủ quan của người phạm tội. Việc làm rõ được động cơ, mục đích phạm tội trong một số trường hợp còn là tình tiết định tội, định khung tăng nặng trong các tội phạm cụ thể được BLHS quy định. Do vậy, khi nghiên cứu hồ sơ vụ án để xây dựng cáo trạng phải nghiên cứu kỹ các tài liệu, chứng cứ đã được thu thập và có trong hồ sơ; trên cơ sở đó phân tích, đánh giá một cách khách quan, toàn diện để chứng minh, làm rõ ý thức chủ quan của người phạm tội; tránh áp đặt theo ý chủ quan của người xây dựng bản cáo trạng.
Về cách viết bản cáo trạng cũng có nhiều cách thể hiện khác nhau, nhưng qua nghiên cứu, cáo trạng của Viện kiểm sát các cấp được viết chủ yếu qua hai cách viết phổ biến là: viết quy nạp và viết diễn giải. Viết theo cách quy nạp là cách viết đi thẳng vào việc xác định hành vi phạm tội để làm cơ sở quy kết hành vi. Cách viết này thường được thấy ở các vụ án có chứng cứ rõ ràng, phạm tội quả tang, bị can nhận tội… Còn cách viết diễn giải là cách viết diễn đạt và giải thích; thường thấy ở các vụ án có nhiều bị can, nhiều hành vi phạm tội, bị can không nhận tội… Để việc viết nội dung bản cáo trạng đảm bảo yêu cầu, có một số cách viết ở những trường hợp cụ thể như sau:
+ Đối với vụ án bị can không nhận tội phải bắt đầu từ lời khai bị hại, nhân chứng, tài liệu xác minh… để chứng minh hành vi phạm tội của bị can. Sau đó nêu lời khai bị can và lập luận bác bỏ lời khai này.
+ Đối với vụ án được sáp nhập nhiều vụ án khác nhau, vụ án có nhiều bị can thực hiện, nhiều hành vi về cùng một loại tội phạm hoặc thực hiện nhiều hành vi phạm tội khác nhau, hành vi phạm tội của các bị can đan xen lẫn nhau trong các vụ án khác nhau, thì lấy bị can cầm đầu, thực hiện nhiều vụ án khác nhau làm trung tâm, sau đó phân ra thành từng nhóm tội phạm, từng vụ việc phạm tội hoặc từng hành vi phạm tội cụ thể. Trong mỗi nhóm này, viết rõ từng vụ án, nêu rõ diễn biến từng hành vi phạm tội cụ thể theo trình tự thời gian.
Trong từng hành vi phạm tội cụ thể đó cũng được phản ánh rõ vị trí, vai trò và hành vi cụ thể của từng bị can tham gia.
+ Đối với các hành vi phạm tội được phát hiện trong quá trình điều tra, khi viết cáo trạng nêu hết vụ án được khởi tố ban đầu sau đó trình bày theo thứ tự thời gian từng lần phạm tội sau cho đến hết.
Đối với những vụ án có một bị can hoặc nhiều bị can phạm nhiều tội hoặc gây ra nhiều vụ án nhưng cùng một tội danh, thì nêu từng hành vi phạm tội theo trình tự thời gian diễn ra hành vi phạm tội hoặc trình tự phát hiện, khám phá vụ án hoặc  theo tính chất tội phạm, từ tội đặc biệt nghiêm trọng, tội rất nghiêm trọng, tội nghiêm trọng đến ít nghiêm trọng.
Sau khi mô tả hành vi phạm tội của các bị can phải tổng hợp hành vi phạm tội của từng bị can, mỗi bị can tham gia bao nhiêu vụ án, tính chất, mức độ, hậu quả… để xác định vai trò của từng bị can làm căn cứ để quy kết, áp dụng các điểm, khoản, điều luật của BLHS, cũng như làm cơ sở cho việc luận tội, đề xuất mức hình phạt khi luận tội.
+ Đối với những vụ án có đồng phạm, phải mô tả cụ thể hành vi của mỗi bị can, vai trò từng bị can trong vụ án, nêu rõ và chi tiết những hành vi vượt quá của bị can trong vụ án đồng phạm (nếu có) để làm cơ sở cho việc quyết định truy tố các bị can về những tội danh mà bị can đã thực hiện.
+ Đối với những vụ án được phát hiện, khám phá do đơn thư của quần chúng nhân dân, do kết quả của công tác trinh sát (thường được hiểu là những vụ án bắt truy xét), thì không nên trình bày như những vụ án bắt quả tang là viết ngay vào nội dung của vụ án; mà đối với những vụ án loại này, trước khi trình bày nội dung vụ  án cần nêu rõ căn cứ khởi tố, lý do phát hiện, khám phá vụ án như: Đơn trình báo của bị hại, người làm chứng… trên cơ sở đó Cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh, xác định được sự kiện phạm tội.
+ Trong trường hợp bị can phạm tội bị bắt quả tang, trong quá trình điều tra lại phát hiện trước đó bị can gây ra một hoặc nhiều vụ án khác, thì trình bày diễn biến của vụ án phạm tội quả tang trước, sau đó nêu rõ quá trình điều tra đã xác định được bị can còn thực hiện các hành vi phạm tội trước đó. Cách viết chuyển tiếp từ vụ án phạm tội quả tang sang có thể là: ngoài vụ án trên, trước đó bị can còn gây ra…; hoặc trong quá trình điều tra, bị can đã khai nhận trước đó đã thực hiện… rồi trình bày lần lượt từng vụ án đó theo trình tự thời gian phạm tội mà bị can đã thực hiện.

2. Chuyển hồ sơ và bản cáo trạng đến Tòa án

Viện kiểm sát là cơ quan duy nhất nhân danh Nhà nước thực hiện việc buộc tội người phạm tội, đưa người thực hiện hành vi phạm tội ra trước Tòa án để xem xét thông qua việc ban hành cáo trạng. Chính cáo trạng là văn bản pháp lý của Viện kiểm sát truy tố bị can ra trước Tòa án để xét xử nên khi ban hành cáo trạng, Viện kiểm sát phải chuyển hồ sơ cùng bản cáo trạng đến Tòa án. Lúc này, giai đoạn tố tụng mới được phát sinh, khi Tòa án nhận hồ sơ vụ án là thời điểm mở đầu cho giai đoạn xét xử. Chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Tòa án được bắt đầu từ thời điểm nhận hồ sơ vụ án cùng bản cáo trạng của Viện kiểm sát. Tòa án không thể tiến hành xét xử mà không có cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát, đồng thời quyết định truy tố của Viện kiểm sát cũng xác định phạm vi xét xử cho Tòa án. Việc truy tố  của Viện kiểm sát kịp thời, chính xác sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động xét xử, đảm bảo cho việc xét xử đúng quy định pháp luật, góp phần hiệu quả trong công tác đấu tranh, phòng chống tội phạm. Có thể thấy, khi Viện kiểm sát chuyển hồ sơ và bản cáo trạng truy tố người phạm tội đến Tòa án là lúc phát sinh mối quan hệ tố tụng mới, đó là quan hệ giữa người bị truy tố với Tòa án.

3. Các trường hợp trả hồ sơ để điều tra bổ sung, tạm đình chỉ, đình chỉ, phục hồi vụ án hình sự

Trong giai đoạn truy tố, ngoài việc truy tố bị can, Viện kiểm sát có quyền trả hồ sơ để điều tra bổ sung, đình chỉ hoặc tạm đình chỉ, phục hồi vụ án.
- Trả hồ sơ để điều tra bổ sung: có nhiều ý kiến chưa thống nhất về vấn đề trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Tuy nhiều ý kiến cho rằng cần trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn truy tố là cần thiết khi còn thiếu chứng cứ để bảo đảm các vấn đề thuộc đối tượng chứng minh trong vụ án hình sự khi Viện kiểm sát không thể tự mình bổ sung được; khi có căn cứ khởi tố bị can về một hay nhiều tội phạm khác; có người đồng phạm hoặc người phạm tội khác liên quan đến vụ án nhưng chưa được khởi tố bị can; có vi phạm nghiêm trọng thủ tục TTHS trong quá trình điều  tra, kiểm sát.
- Tạm đình chỉ vụ án hình sự: để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bảo đảm không bỏ lọt tội phạm, Viện kiểm sát quyết định tạm đình chỉ vụ án khi có kết luận giám định tư pháp xác định bị can bị bệnh tâm thần hoặc bệnh hiểm nghèo; khi bị can bỏ trốn mà không biết rõ bị can đang ở đâu nhưng đã hết thời hạn quyết định việc truy tố, trong trường hợp này phải yêu cầu cơ quan điều tra truy nã bị can trước khi tạm đình chỉ vụ án; khi trưng cầu giám định, yêu cầu định giá tài sản, yêu cầu nước ngoài tương trợ tư pháp mà chưa có kết quả nhưng đã hết thời hạn quyết định việc truy tố.
- Đình chỉ vụ án hình sự: Viện kiểm sát quyết định đình chỉ vụ án khi có các căn cứ pháp luật hình thức (được quy định trong BLTTHS) hoặc căn cứ trong pháp luật nội dung (được quy định trong BLHS). Quyết định đình chỉ vụ án là một văn bản pháp lý tố tụng chấm dứt việc tiến hành tố tụng đối với vụ án hoặc với từng bị can và kết thúc giai đoạn truy tố, khắc phục kịp thời oan, sai.
- Phục hồi vụ án hình sự: phục hồi vụ án đã bị tạm đình chỉ hoặc đình chỉ cho phép Viện kiểm sát khắc phục những sai sót trong quá trình điều tra vụ án hình sự, tránh bỏ lọt tội phạm và tránh được oan, sai. Khi quyết định phục hồi vụ án, Viện kiểm sát có quyền áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, cưỡng chế khi cần thiết nhằm kịp thời ngăn chặn tội phạm hoặc khi có căn cứ chứng tỏ người đó tiếp tục phạm tội hay để đảm bảo hoạt động truy tố.

4. Kiểm sát việc truy tố

Thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong giai đoạn truy tố có mối quan hệ khăng khít, hỗ trợ lẫn nhau. Hoạt động kiểm sát trong giai đoạn truy tố có tính phòng ngừa, ngăn chặn vi phạm, tội phạm xảy ra và có mối quan hệ trực tiếp đến hiệu quả đấu tranh chống tội phạm. Hoạt động kiểm sát trong giai đoạn truy tố là tiền đề, nền tảng đảm bảo cho việc quyết định truy tố bị can đúng pháp luật và đạt được hiệu quả cao.
Ở giai đoạn truy tố, cơ quan có thẩm quyền chủ yếu đối với việc giải quyết vụ án là Viện kiểm sát, nên hoạt động kiểm sát trong giai đoạn này chủ yếu hướng đến người tham gia tố tụng, cơ quan tổ chức hữu quan. Trong công tác này, Viện kiểm sát phát hiện những hành vi, quyết định của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động tư pháp có vi phạm pháp luật, tùy từng trường hợp mà Viện kiểm sát ban hành yêu cầu, kiến nghị hoặc có biện pháp xử lý nghiêm minh người vi phạm pháp luật đó. Trường hợp nếu phát hiện sơ hở, thiếu sót trong hoạt động quản lý thì kiến nghị cơ quan, tổ chức hữu quan khắc phục.
Trong công tác đấu tranh, phòng chống tội phạm, Viện kiểm sát không chỉ thực hiện việc buộc tội người thực hiện hành vi phạm tội ra trước Tòa án để xét xử mà để góp phần nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh, phòng chống tội phạm còn rất nhiều biện pháp khác nhau như Viện kiểm sát kiến nghị với Cơ quan điều tra khắc phục vi phạm trong hoạt động điều tra, kiến nghị cơ quan Công an tăng cường tuần tra, kiểm soát giao thông, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm giao thông nhằm giảm thiểu tình trạng tai nạn giao thông, kiến nghị chính quyền địa phương trong công tác hòa giải ở cơ sở, không để mâu thuẫn, bức xúc kéo dài trong nhân dân.
Trân trọng!
Bộ phận tư vấn pháp luật hình sự - Công ty Luật Minh Khuê