Mục lục bài viết
1. Giai đoạn từ năm 1945 đến trước khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988
1.1 Ngay sau khi Nhà nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa ra đời
Chủ tịch Chính phủ lâm thời đã ban hành Sắc lệnh số 33c/SL ngày 13/9/1945 về thành lập các Tòa án quân sự ở ba miền Bắc, Trung, Nam. Theo Sắc lệnh này, Tòa án quân sự của Chính phủ lâm thời có chức năng công tố, do một Ủy viên quân sự hoặc ủy viên Ban trinh sát đứng buộc tội. Đây là văn bản đầu tiên ghi nhận chức năng công tố của chính quyền dân chủ nhân dân. Theo Sắc lệnh, ông Chưởng lý hoàn toàn giữ quyền truy tố và hành động, các Công tố viện coi như được ủy quyền hành động của ông Chưởng lý. Một Thẩm phán buộc tội sau khi đệ bản kết luận viết theo lệnh trên có thể kết luận miệng theo ý riêng của mình.
Tiếp đó, Nhà nước ta đã ban hành Sắc lệnh số 51 ngày 17/4/1946. Theo Sắc lệnh thì người làm nhiệm vụ Công tố viện có nhiệm vụ tư pháp cảnh sát, giám sát hành động ban hành tư pháp cảnh sát; thực hiện nhiệm vụ công tố, có quyền hỏi cung bị can, hạ trát tống giam, tạm đình cứu hoặc miễn tố vô thẩm quyền, khởi tố trạng, quyết tố trạng ra mệnh lệnh đưa việc kiện ra xét xử tại phiên tòa hoặc phải có mặt tại phiên tòa để buộc tội bị can, giám sát hoạt động xét xử, có quyền kháng cáo án đã tuyên… Như vậy, nhiệm vụ công tố đã được thể hiện bằng tên gọi “Biện lý”. Biện lý lập khởi tố trạng trong những trường hợp được quy định tại Điều 23 khoản 3 của Sắc lệnh:
- Nếu là một việc đại hình,
- Nếu bị can là vị thành niên,
- Nếu bị can, vì các tiền án, có thể bị phát vãng,
- Nếu xét ra cần phải mở một cuộc thẩm cứu kỹ lưỡng hơn.
Khi cuộc thẩm cứu đã kết thúc và khi tiếp nhận được hồ sơ do ông dự thẩm chuyển sang thì trong thời hạn 03 ngày, ông Biện lý sẽ làm quyết tố trạng ra mệnh lệnh hoặc tạm đình cứu hoặc miễn tố vô thẩm quyền hoặc đưa việc kiện ra xét xử tại một phiên tòa vi cảnh, tiểu hình hay đại hình8. Như vậy, Sắc lệnh số 51 ngày 17/4/1946 đã cơ bản hình thành các quy định về quyết định việc truy tố bị can.
1.2 Từ năm 1958 đến trước năm 1960
Cơ quan Công tố của Việt Nam được thành lập theo Nghị quyết ngày 25/01/1958 của Quốc hội, gọi là Viện công tố, tổ chức thành một hệ thống cơ quan độc lập. Ngày 01/7/1959, Thủ tướng Chính phủ nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa ban hành Nghị định số 256-TTg quy định về tổ chức và nhiệm vụ của Viện Công tố Trung ương và hệ thống Viện công tố. Cơ quan Công tố tách khỏi Tòa án và trực thuộc Chính phủ, thực hiện chức năng công tố và giám sát việc chấp hành pháp luật trong công tác điều tra, xét xử, thi hành án.
Ngày 26/7/1960, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Lệnh công bố Luật tổ chức VKSND đầu tiên, hệ thống cơ quan VKSND được thành lập với tiền thân là Viện công tố song có sự thay đổi hoàn toàn về chất, thể hiện ở những điểm cơ bản như: Viện kiểm sát là cơ quan do Quốc hội lập ra, độc lập, không phụ thuộc vào chính quyền địa phương cả về hệ thống tổ chức và hoạt động; Viện kiểm sát thực hiện một chức năng đó là kiểm sát việc tuân theo pháp luật trên hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong đó, hoạt động điều tra, truy tố do Viện kiểm sát thực hiện được coi là một trong những cách thức để Viện kiểm sát thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong lĩnh vực hình sự.
Công an hoặc cơ quan điều tra khác tiến hành điều tra tội trạng và truy nã can phạm đang trốn; yêu cầu cơ quan Công an hoặc cơ quan điều tra khác cung cấp những tài liệu cần thiết để chứng minh tội trạng của can phạm; nếu thấy chứng cớ chưa rõ ràng thì trả lại hồ sơ để cơ quan Công an hoặc cơ quan điều tra khác tiến hành điều tra thêm; tham gia việc điều tra hoặc khi cần thiết thì tự mình tiến hành điều tra; truy tố hoặc miễn tố can phạm; đình cứu các vụ án hình sự theo qui định của pháp luật; khi thấy việc điều tra của cơ quan Công an hoặc cơ quan điều tra khác có chỗ không đúng pháp luật thì yêu cầu sửa chữa; trường hợp nhân viên điều tra phạm tội trong việc điều tra thì truy cứu TNHS”
1.3 Từ năm 1960 đến trước năm 1988
Thông tư liên bộ số 427/TT-LB ngày 28/6/1963 của Bộ Công an – Viện kiểm sát nhân dân tối cao là Thông tư liên tịch đầu tiên quy định về công tác kiểm sát điều tra của Viện kiểm sát, quy định tạm thời một số nguyên tắc về quan hệ công tác giữa VKSND tối cao và Bộ Công an. Viện kiểm sát có nhiệm vụ kiểm sát việc điều tra của Cơ quan điều tra, có quyền hủy bỏ quyết định khởi tố hoặc ra quyết định khởi tố vụ án khi thấy quyết định khởi tố hoặc đình chỉ khởi tố của cán bộ Công an không đúng, có quyền phê chuẩn việc bắt, khám người, khám nhà, tạm giữ hoặc kê biên tài sản, tạm giam, miễn tố, tạm tha bị án; chứng kiến việc khám nghiệm hiện trường, khám người, khám nhà, hỏi cung bị can hoặc tự mình hỏi cung bị can; kiểm sát quyết định tạm đình chỉ, đình cứu, quyết định tiếp tục cuộc điều tra, đề ra yêu cầu điều tra. Sau khi kết thúc điều tra, nếu thấy cần truy tố ra trước pháp luật thì cơ quan Công an làm bản cáo trạng gửi đến Viện kiểm sát kèm theo hồ sơ, Viện kiểm sát thẩm tra và ra một trong các quyết định: phê chuẩn bản cáo trạng và truy tố; miễn tố hoặc đình cứu theo quy định của pháp luật; hoàn lại hồ sơ để cơ quan điều tra bổ sung nếu thấy hồ sơ thiếu những chứng cứ chủ yếu và nêu yêu cầu cụ thể; hoàn lại hồ sơ và bản cáo trạng nếu xét thấy cần thay đổi căn bản nội dung bản cáo trạng, trường hợp sai sót trong bản cáo trạng nhưng không làm thay đổi căn bản nội dung bản cáo trạng thì Viện kiểm sát góp ý cơ quan Công an sửa lại bản cáo trạng hoặc tự mình làm bản cáo trạng khác để Tòa án xét xử. Phạm vi kiểm sát điều tra của Viện kiểm sát được bắt đầu từ sau khi khởi tố vụ án và kết thúc khi Viện kiểm sát phê chuẩn cáo trạng và truy tố bị can ra trước Tòa án, miễn tố bị can hoặc đình cứu vụ án theo quy định của pháp luật.
Có thể nói đây là thời kỳ khó khăn nhất để hình thành nên hệ thống pháp luật. Các nhà làm luật đã xây dựng những quy định ban đầu về thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra. Các quy định này phù hợp với điều kiện thực tế, dù chưa đầy đủ, toàn diện nhưng đã tạo ra khuôn mẫu mang tính bắt buộc và được tổ chức thực hiện thống nhất, nghiêm minh, góp phần tích cực phòng, chống tội phạm. Những quy định về quyết định việc truy tố bị can bước đầu đã được hình thành.
2. Giai đoạn từ năm 1988 đến nay
Hiến pháp năm 1980 ra đời khẳng định vị trí, vai trò quan trọng của VKSND trong tổ chức bộ máy Nhà nước, đảm bảo pháp chế thông qua thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật. Theo đó, cụm từ “thực hành quyền công tố” lần đầu tiên được Hiến pháp năm 1980 ghi nhận trong chế định về VKSND. Đồng thời, ngày 28/6/1988 Quốc hội ban hành BLTTHS đầu tiên đánh dấu bước phát triển mới trong hoạt động lập pháp, quy định tương đối đầy đủ trình tự, thủ tục giải quyết vụ án hình sự. Bộ luật này quy định rõ quyền và nghĩa vụ của VKSND tại các giai đoạn TTHS. Các quyết định trong giai đoạn truy tố được quy định tại Điều 142 BLTTHS năm 1988 đó là những quyền năng thuộc chức năng thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát, tạo cơ sở pháp lý để Viện kiểm sát thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình.
Đến ngày 30/6/1990, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều BLTTHS năm 1988 được ban hành, quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát không có thay đổi lớn, chỉ sửa đổi thẩm quyền gia hạn thời hạn truy tố thuộc về Viện trưởng Viện kiểm sát nơi đang giải quyết vụ án đó; bổ sung trường hợp sau khi nhận hồ sơ vụ án, Viện kiểm sát có quyền quyết định việc áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn.
Khi Hiến pháp năm 1992 và Luật tổ chức VKSND năm 1992 được ban hành, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Viện kiểm sát được quy định cụ thể hơn. Trên cơ sở đó, ngày 22/12/1992, Quốc hội ban hành Luật sửa đổi, bổ sung BLTTHS năm 1988 lần thứ hai đã quy định rõ hơn về căn cứ trả hồ sơ điều tra bổ sung, đình chỉ và tạm đình chỉ vụ án hình sự trong giai đoạn truy tố. Theo đó, Điều 143a sửa đổi bổ sung Điều 143 BLTTHS năm 1988 quy định rõ ràng căn cứ trả hồ sơ điều tra bổ sung trong các trường hợp khi qua nghiên cứu hồ sơ vụ án còn phát hiện thấy thiếu những chứng cứ quan trọng đối với vụ án mà Viện kiểm sát không thể tự mình bổ sung được; có căn cứ để khởi tố bị can về một tội khác hoặc có đồng phạm khác; có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng. Đồng thời quy định rõ những vấn đề cần điều tra bổ sung phải được nói rõ trong quyết định yêu cầu điều tra bổ sung. Ngoài ra, Điều 143b sửa đổi bổ sung Điều 143 BLTTHS năm 1988 đã quy định rõ về căn cứ của việc tạm đình chỉ vụ án hình sự trong trường hợp bị can bị bệnh tâm thần hoặc bệnh hiểm nghèo mà có chứng nhận của Hội đồng giám định pháp y hoặc khi bị can bỏ trốn mà không biết rõ bị can đang ở đâu và trong trường hợp này phải yêu cầu Cơ quan điều tra truy nã bị can. Đối với vụ án có nhiều bị can mà căn cứ để đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án không liên quan đến các tất cả các bị can thì có thể đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án đối với từng bị can. Đến ngày 09/6/2000, Quốc hội ban hành Luật sửa đổi, bổ sung BLTTHS năm 1988 lần thứ ba quy định cụ thể về thời hạn truy tố và việc gia hạn thời hạn truy tố đối với từng loại tội phạm.
Theo tinh thần Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị BLTTHS năm 203 được ban hành, chế định quyết định việc truy tố của Viện kiểm sát được quy định đầy đủ tại chương XV với 4 điều từ Điều 166 đến Điều 169 về thời hạn quyết định truy tố; bản cáo trạng; trả hồ sơ để điều tra bổ sung; đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án hình sự. Nội dung cơ bản của các quy định này không có sự thay đổi.
Ngày 27/11/2015, Quốc hội ban hành BLTTHS năm 2015 với nhiều thay đổi quan trọng. Những chế định về quyết định việc truy tố bị can đã được bổ sung đầy đủ và hoàn thiện hơn. Quy định bổ sung những nội dung phải được thể hiện trong bản cáo trạng như tính chất, mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra; việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế; nguyên nhân, điều kiện dẫn đến hành vi phạm tội và tình tiết khác có ý nghĩa đối với vụ án. Ngoài ra, BLTTHS năm 2015 đã quy định rõ các căn cứ áp dụng chế định trả hồ sơ để điều tra bổ sung nhằm bảo đảm việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung được tiến hành chặt chẽ, tránh lạm dụng kéo dài thời gian tố tụng. Quy định rõ trách nhiệm của Cơ quan điều tra trong việc thực hiện các yêu cầu của Viện kiểm sát nêu trong quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Đồng thời, quy định rõ hơn căn cứ Viện kiểm sát ra quyết định tạm đình chỉ, quyết định đình chỉ vụ án và bổ sung trường hợp Viện kiểm sát quyết định phục hồi vụ án khi các căn cứ đình chỉ và tạm đình chỉ vụ án không còn nữa.
Như vậy, lịch sử hình thành và phát triển các quy định của pháp luật TTHS về quyết định việc truy tố bị can gắn liền với sự hình thành và phát triển của Viện kiểm sát. Với sắc lệnh số 51 ngày 17/4/1946 đã đánh dấu sự hình thành cơ bản các hoạt động của Viện kiểm sát trong giai đoạn truy tố. Khi BLTTHS năm 1988 ra đời, quyết định việc truy tố bị can được quy định trong một chương riêng biệt và thể hiện đầy đủ, cơ bản như hiện nay khi quy định về việc truy tố bị can ra trước Tòa án bằng bản cáo trạng, quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung, tạm đình chỉ và đình chỉ vụ án. Sau đó, các BLTTHS năm 203 và BLTTHS năm 2015 đã tiếp tục có những bổ sung quan trọng nhằm hoàn thiện thủ tục truy tố, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn đấu tranh, phòng chống tội phạm của cơ quan Viện kiểm sát nói riêng và cơ quan bảo vệ pháp luật nói chung.
Trân trọng!
Bộ phận tư vấn pháp luật hình sự - Công ty Luật Minh Khuê