Mục lục bài viết
1.Viết lời biện luận
Khi luật sư viết lời bào chữa, lời bảo vệ cho khách hàng tại phiên tòa giải quyết vụ án thì đó chỉ được xem như những nét cơ bản, mà không phải là tất cả. Cho nên, tốt hơn hết là luật sư phải nắm vững sâu sắc nội dung vụ kiện, nội dung truy tố bị cáo viện kiểm sát, hướng lập luận của luật sư phía bên kia, người làm chứng, người có quyển lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án. Bài bào chữa của luật sư thể hiện trình độ chuyên môn, trình độ viết, trình độ thể hiện, mức độ khẩu khí, tính nghiêm túc, cẩn trọng của luật sư không chỉ trong lĩnh vực pháp luật, mà còn phản ánh sự hiểu biết của luật sư về nhiều lĩnh vực khác nữa. Một bài bào chữa đúng, thuyết phục và có lý, có tình, có tính nhân văn sẽ được mọi người ghi nhận, kể cả bị cáo, người bị kết tội do vi phạm luật hình sự cũng không thể oán trách được.
Không có công thức chung cho mọi lời bào chữa của luật sư tại phiên tòa xét xử hình sự, không có mẫu chung cho bài phát biểu của luật sư tại phiên tòa giải quyết các tranh chấp dân sự. Nội dung bài bào chữa do chính bản chất, nội dung của vụ án chi phối. Vì vậy, luật sư phải tự mình tìm cách viết bài bảo vệ mà không ai có thể thay thế. Nội dung bài bào chữa thể hiện tầm hiểu biết, phạm vi hiểu biết và trí tuệ, sự chuẩn bị chu đáo, có chủ đích và có tính khoa học của luật sư. Tính sáng tạo của luật sư rất cần thiết trong việc thể hiện lời biện hộ, quan điểm của luật sư. Vì vậy, dấu ấn của mỗi luật sư phải tự mình ghi lấy, không ai có thể làm thay. Đẳng cấp của luật sư một phần cũng được khẳng định từ nội dung, hình thức, phương pháp thể hiện ngôn ngữ, cách sắp đặt vấn đề trong đối thoại, tranh tụng, khẩu khí của luật sư tại tòa án mà luật sư là người tham gia tranh tụng.
2. Phương án dự phòng
Luật sư trước khi tranh tụng, ngoài bài bào chữa, bài thể hiện quan điểm của luật sư đối với vụ án thì phải có một số phương án dự phòng để chủ động vì có thể có những tình tiết phát sinh trong quá trình tổ tụng. Phương án dự phòng phải dựa trên nội dung của vụ án, của những sự kiện và những tranh chấp cần được giải quyết tại phiên tòa. Có nhiều yếu tố cẩn phải dự phòng hên quan đến tranh tụng tại phiên tòa, như các đương sự, bị cáo có thể phát sinh; tính cách của đương sự, bị cáo; luật sư bảo vệ cho phía bên kia; người dự sự, người làm chứng, người đại diện; các tình tiết bổ sung nội dung tranh chấp, các tình tiết bổ sung trong việc xác định tội danh, định khung hình phạt, tình tiết giảm nhẹ, tình tiết tăng nặng; trở lực khách quan trong việc điều tra vụ án, các vật chứng, vật cứ chứng minh... Rất nhiều phương án cần phải được đặt ra như nêu trên để luật sư luôn ở thế chủ động và làm chủ tâm lý, làm chủ ngôn ngữ, làm chủ khẩu khí. Các phương án dự phòng phải phù hợp với những nội dung của vụ án, của quyển yêu cầu giải quyết vụ án. Những phương án này phải nằm trong một hệ thống logic của tư duy mà luật sư đã sắp xếp trong quá trình tìm phương án tốt nhất để thể hiện lời bào chữa, lời biện hộ và quan điểm thể hiện của mình tại phiên tòa.
Thuyết phục tất cả với chỉ 5 nguyên tắc đơn giản
1) Ethos (Tính tin cậy)
Ethos là hiện thân của chữ tín trong ngôn từ, được tích lũy qua thời gian bởi cách cư xử, làm việc, và thành quả của chính mỗi con người. Aristotle tin rằng, nếu bạn thường xuyên có những hành động trái ngược với lời nói của mình, thì lập luận của bạn sẽ hoàn toàn không có sức thuyết phục.
Lấy ví dụ, trong bài thuyết trình TED talk gần đây về việc cải cách hệ thống tư pháp hình sự tại Mỹ, Luật sư Nhân quyền Bryan Stevenson bắt đầu diễn thuyết bằng việc kể lại trải nghiệm làm việc tại nhà giam các tử tù tại đây. Thay vì việc xây dựng căn cứ hùng biện bằng những chứng nhận bằng cấp và thành tích sáo rỗng, Stevenson đưa người nghe vào bối cảnh câu chuyện có liên hệ mật thiết tới bài thuyết trình của mình. Nhờ đó, ông có thể tạo ra cảm giác tin tưởng cho khán giả, cũng như vun vén tính đúng đắn của những luận điểm được truyền tải trong bài nói.
2) Logos (Tính lý luận)
Sau khi bạn đã xây dựng được tính tin cậy cho bản thân mình, bước tiếp theo, hãy đưa ra những lý luận hấp dẫn để lôi kéo người nghe, hướng sự hứng thú của họ tới vấn đề mà bạn đang muốn thuyết phục.
Ví dụ, trong trường hợp, bạn muốn thuyết phục khách hàng mua sản phẩm của mình vì chúng tiết kiệm hơn so với đối thủ, hãy đưa ra những lý luận cho người nghe về việc họ có thể tiết kiệm được bao nhiêu và như thế nào. Tương tự như trường hợp bạn muốn gọi vốn từ các nhà đầu tư. Hãy đặt ra câu hỏi: “Nếu rót tiền vào công ty của bạn, nhà đầu tư sẽ nhận được những lợi ích gì?” và trả lời chúng để xây dựng lập luận cho mình.
Thêm một lưu ý nho nhỏ, bạn hãy sử dụng thêm các con số, dữ liệu và bằng chứng để tăng thêm tính thuyết phục cho lập luận của mình. Trong thời đại data-driven như hiện nay, bất chấp việc lý luận có sắc bén tới đâu, việc thiếu đi số liệu cụ thể dường như cũng sẽ ảnh hưởng ít nhiều tới quyết định của mỗi cá nhân.
Warren Buffett thừa nhận, trước đây, ông không phải là người quá xuất sắc trong việc đưa ra lý lẽ và dẫn chứng để thuyết phục người khác. Dằn vặt vì không thể trơn tru đàm phán với khách hàng trong thời gian dài, ông tham gia khóa học hùng biện và lý luận của Dale Carnegie và phải kinh qua tới 2 lần mới có thể rèn lối tư duy cho bản thân.
Khi đạt được chứng chỉ khóa học, khả năng thuyết phục của Warren được cải thiện rõ ràng. Vậy nên, ông coi trọng khóa học này tới mức, chỉ treo duy nhất chứng chỉ của nó trong văn phòng của mình và đánh giá cao tất cả các ứng viên xét tuyển vào công ty có bằng cấp tương đương.
3) Pathos (Tính xúc cảm)
Theo Arstotle, trong bất cứ hoạt động thuyết phục nào, cảm xúc vẫn là yếu tố quan trọng nhất: Con người thường dễ dàng đưa ra những quyết định cảm tính khi lý trí bị lay động.
Cũng dựa trên di bút của Aristotle, ông tin rằng phương thức tốt nhất để truyền tải cảm xúc giữa người với người là bằng cách kể chuyện (storytelling). Hơn 2000 năm sau khi ra đời, lý thuyết này gần đây đã được các nhà thần kinh học chứng minh tính chính xác. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng, một câu chuyện hấp dẫn sẽ kích thích những chất hóa học thần kinh trong não, như oxytocin, khiến con người trở nên cảm tính và dễ dàng đưa ra quyết định hơn.
Lý thuyết này còn được củng cố mạnh mẽ hơn qua phân tích của ký giả Drake Baer trên trang Business Insider. Qua tìm hiểu của ông, trong 500 bài thuyết trình TED Talk nổi tiếng nhất, có tới 65% được truyền tải dưới dạng câu chuyện: Việc lồng ghép những ý tưởng vĩ đại vào trong một câu chuyện nhỏ bé và thân thuộc dường như là công thức thành công của mọi diễn giả, nhà hùng biện hàng đầu.
4) Metaphor (Phép ẩn dụ)
“Làm chủ được phép ẩn dụ là điều tuyệt nhất mà một nhà hùng biện có thể ao ước”.
Với phép ẩn dụ, bạn hoàn toàn có thể diễn giải những ý tưởng vĩ đại của mình bằng những hình ảnh thân thuộc, gần gũi với người nghe, giúp họ dễ dàng tiếp thu thông tin và đồng thời có một cái nhìn lạc quan hơn vào luận điểm thuyết phục của bạn.
Lại nói đến Warren Buffett, ông là một trong những nhà thuyết phục tài ba nhất thường xuyên lồng ghép yếu tố ẩn dụ trong lời nói của mình. Năm 2017, trong cuộc họp cổ đông thường niên của Berkshire Hathaway, Buffett đã ví von tình trạng tăng thuế phí sức khỏe như một con kí sinh trùng khó ưa (unpleasant tapeworm) của Mỹ. Qua hình ảnh này, ông đã mô tả được chính xác được nguyên nhân đang làm xói mòn nghiêm trọng hệ thống kinh tế quốc gia mà không cần phải diễn giải quá nhiều. Các tờ báo điểm tin sau đó cũng đã dùng cụm từ này của ông để làm tiêu đề.
Rõ ràng, sử dụng khéo léo phép ẩn dụ không chỉ giúp người nghe tiếp nhận thông tin nhanh chóng hơn, mà còn khiến họ dễ dàng ghi nhớ và chia sẻ chúng với người khác. Đây là công cụ không thể thiếu khi bạn muốn thuyết phục không chỉ một, mà là nhiều người hay thậm chí cả tổ chức, doanh nghiệp.
5) Brevity (Tính khúc chiết)
Aristotle lại một lần nữa là người đi trước cả khoa học và thời đại. Ông đã phát hiện ra con người cho những giới hạn nhất định trong việc tiếp nhận và lưu giữ thông tin. Bởi vậy, theo ông, khi muốn thuyết phục ai đó, hãy cố gắng đưa ra thông điệp được tối giản hết mức có thể.
Đồng thời, Aristotle cũng cho rằng, phần mở đầu của thông điệp thuyết phục là quan trọng nhất, do con người thường chỉ có sự tập trung trong một khoảng thời gian nhất định. Vậy nên, bài học được rút ra là hãy đưa ra luận điểm mạnh mẽ nhất của tại phần mở đầu của quá trình thuyết phục, và lưu ý giữ cho chúng càng ngắn càng tốt.
Nếu chú tâm vào các bài diễn thuyết trước đám đông của Warren Buffett, ta có thể thấy, bất chấp thời lượng nói có dài hay ngắn, câu cú được ông sử dụng vô cùng gãy gọn và tinh giản. Đồng thời, để thu hút sự chú ý của mọi người, các hình thức dẫn dắt vào vấn đề của ông cũng vô cùng hấp dẫn, ngắn gọn.
3.Thuật hùng biện tại phiên tòa
Luật sư thể hiện lời bào chữa của mình tại phiên tòa để bảo vệ các quyển, lợi ích hợp pháp của khách hàng của mình thông qua ngôn ngữ và khẩu khí của mình. Luật sư khi đối thoại, khi tranh luận phải làm chủ lý chí và ý chí để vận dụng các phương pháp hùng biện, thể hiện ngôn ngữ, thể hiện khẩu khí của mình đúng sao cho đạt được mục đích đặt ra. Những nguyên tắc chỉ đạo cho hoạt động hùng biện của luật sư là nhân tâm, bản lĩnh, tôn trọng sự thật, lẽ công bằng, trí, dũng kết hợp trong tranh luận, trong việc thể hiện quan điểm của mình.
4. Truy tố và biện hộ trong hùng biện tư pháp
"Trong hùng biện tư pháp , các công tố viên thường cố gắng đưa ra sự đồng ý với sự thật của một tuyên bố như sau: 'John đã giết Mary.' Đó là, các công tố viên cố gắng 'thuyết phục' của họ khán giả đồng ý với tuyên bố của họ về thực tế. Một số hình thức của sự đề kháng với lập luận của họ là tiềm ẩn trong các tình huống của họ, vì lý lẽ phản đối được mong đợi từ đối phương. Aristotle nhấn mạnh khái niệm về tranh chấp hoặc tranh luận trong vốn luận điệu tư pháp: “Trong tòa án luật có hoặc buộc tội hoặc bào chữa; vì những người tranh chấp là cần thiết để đưa ra một trong những điều này ". Nghĩa này của từ thuyết phục là một trong những nghĩa phổ biến hơn của nó."
Mô hình cho lý do thực tế
"Trong khi các sinh viên lý luận thực tiễn đương thời hiếm khi nghĩ đến biện pháp hùng biện, lý luận tư pháp là khuôn mẫu cho lý luận thực tiễn hiện đại. Chúng ta thường cho rằng lý luận thực tiễn phải tiến hành từng trường hợp và quan điểm của lý luận thực tiễn là biện minh cho hành động của chúng ta... . Đối với Aristotle, sự cân nhắc là kiểu mẫu cho lý do thực tế bởi vì ở đó sự kết hợp của Aristotle giữa cá nhân và đạo đức là thực tế và cơ bản, trong khi trong hùng biện tư pháp, sự kết hợp đó chỉ do người nói tạo ra . "
5.Hùng biện tư pháp ở Hy Lạp và La Mã cổ đại
"Bất cứ ai đọc các bài hùng biện cổ điển sẽ sớm phát hiện ra rằng nhánh của thuật hùng biện nhận được nhiều sự chú ý nhất là tư pháp, người hùng biện của phòng xử án. Kiện tụng tại tòa án ở Hy Lạp và La Mã là một trải nghiệm cực kỳ phổ biến đối với ngay cả những công dân tự do bình thường - thường là chủ hộ là nam giới - và đó là một công dân hiếm hoi không ra tòa ít nhất nửa tá lần trong thời gian quá trình trưởng thành của mình. Hơn nữa, một công dân bình thường thường được mong đợi là người biện hộ cho chính mình trước thẩm phán hoặc bồi thẩm đoàn. Một công dân bình thường không có kiến thức toàn diện về luật pháp và các kỹ thuật của luật pháp như luật sư chuyên nghiệp, nhưng việc có kiến thức chung về các chiến lược bào chữa và truy tố là rất có lợi cho anh ta. Kết quả là các trường hùng biện đã làm ăn phát đạt trong việc đào tạo giáo dân cách tự vệ trước tòa hoặc truy tố một người hàng xóm xúc phạm. "
Aristotle về Hùng biện Tư pháp và Kỷ niệm chương
" hùng biện tư pháp thúc đẩy công lý và xác định sự bất công bằng cách kháng cáo luật pháp." Bài phát biểu của pháp y chấp nhận như được đưa ra luật pháp của polis ", vì vậy phần hùng biện về tư pháp sử dụng enthymemes để điều chỉnh" các trường hợp cụ thể thành luật chung "(Bài hùng biện của Aristotle Aristotle đề cập đến lời buộc tội và biện hộ cũng như nguồn gốc mà từ đó các mê hồn của họ nên được rút ra, điều tra 'vì mục đích gì và bao nhiêu, mọi người làm sai... Làm thế nào những người này bị xử lý [về mặt tinh thần], "và" loại nào về những người mà họ sai và những người này giống như thế nào '( Trên Hùng biện , 1. 10. 1368b). Bởi vì Aristotle quan tâm đến nhân quả để giải thích hành động sai trái,ông ấy thấy rằng enthymemes đặc biệt hữu ích trong các bài hùng biện về tư pháp. "
Tập trung vào quá khứ trong hùng biện tư pháp
"Những lời hùng biện về tư pháp chỉ liên quan đến thực tế trong quá khứ và việc áp dụng các nguyên tắc đạo đức không giống ai, để nó khiến nhà hùng biện lý tưởng của Aristotle không có cơ sở cho sự không chắc chắn. Nhưng có lẽ những lời ngụy biện có chủ ý , vì nó liên quan đến những trường hợp bất thường trong tương lai và kết quả ít nhiều có thể xảy ra của các chính sách thay thế, là một triển vọng tốt hơn để so sánh với phép biện chứng . "