Mục lục bài viết
- 1. Khái niệm của truy tố bị can
- 2. Đặc điểm của truy tố bị can
- 2.1 Phát hiện chính xác, nhanh chóng, xử lý kịp thời mọi HVPT, không để lọt tội phạm và không làm oan người vô tội
- 2.2 Việc truy tố bị can chỉ được thực hiện trong giai đoạn truy tố
- 2.3 Để có căn cứ và đảm bảo đúng quy định, VKS phải tiến hành các hoạt động tố tụng cần thiết
- 3. Các nguyên tắc cần tuân thủ trong việc truy tố bị can
- 3.1 Nguyên tắc bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa
- 3.2 Nguyên tắc xác định sự thật vụ án
- 3.3 Nguyên tắc suy đoán vô tội
- 3.4 Nguyên tắc không ai bị kết án hai lần vì một tội phạm
- 3.5 Nguyên tắc trách nhiệm thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật
1. Khái niệm của truy tố bị can
Truy tố bị can là hoạt động thực hành quyền công tố của Viện Kiểm sát sau khi kết thúc giai đoạn điều tra, với nội dung là đưa người phạm tội ra trước Tòa án để xét xử. Theo đó, khi nhận hồ sơ vụ án cùng bản kết luân điều tra từ Cơ quan điều tra chuyển sang, Viện kiểm sát sẽ kiểm tra, đánh giá những tài liệu, chứng cứ được Cơ quan điều tra thu thập có hợp pháp và đầy đủ hay không. Đồng thời, trong giai đoạn này, Viện kiểm sát tiến hành các hoạt động tố tụng cần thiết nhằm đánh giá khách quan, toàn diện các tài liệu, chứng cứ đã thu thập trước đó. Trường hợp những tài liệu, chứng cứ đó được thu thập đầy đủ và đúng theo trình tự, thủ tục tố tụng thì Viện kiểm sát quyết định truy tố bị can ra trước Tòa án để xét xử bằng bản cáo trạng hoặc quyết định truy tố trong trường hợp vụ án được giải quyết theo thủ tục rút gọn. Trên thế giới hiện nay có hai nguyên tắc truy tố thường được vận dụng, đó là nguyên tắc truy tố bắt buộc và nguyên tắc tùy nghi truy tố. Nguyên tắc truy tố bắt buộc được áp dụng ở một số nước theo hệ thống luật lục địa. Theo đó khi có đầy đủ bằng chứng về hành vi phạm tội, cơ quan công tố bắt buộc phải truy tố người đó ra Tòa án. Còn nguyên tắc tùy nghi truy tố được áp dụng ở hầu hết các nước theo truyền thống luật án lệ và ở một số nước Châu Âu lục địa. Không phải mọi hành vi phạm tội đều phải đưa ra Tòa án do phải cân nhắc các nguồn lực và lợi ích công chúng. Thay vì truy tố tất cả, cơ quan công tố chỉ tập trung vào các tội phạm nghiêm trọng, phức tạp tùy theo biến động của tình hình. Khi áp dụng nguyên tắc tùy nghi truy tố, Viện công tố có quyền không truy tố một tội phạm ngay cả khi đủ bằng chứng phạm tội
Một số quan điểm đã đồng nhất cáo trạng với kết luận điều tra khi cho rằng: “Cáo trạng chỉ là văn bản tố tụng mang tính hình thức, tất cả tội trạng đều đã có trong hồ sơ vụ án, nằm trong các tài liệu, các vật chứng mà Cơ quan điều tra đã xác minh, thu thập nên cáo trạng chỉ nêu diễn biến vụ án”. Hay có quan điểm cho rằng: “Cáo trạng không phải là văn bản nêu lên các chứng cứ của vụ án mà cáo trạng chủ yếu là văn bản nêu lên hành vi bị can, còn chứng cứ là cơ sở đảm bảo cho việc diễn đạt nội dung cáo trạng được đầy đủ, chính xác”. Một quan điểm khác lại đưa ra khái niệm cáo trạng như sau: “Cáo trạng không chỉ là văn bản nêu lên chứng cứ của vụ án mà cáo trạng chủ yếu là văn bản nêu lên hành vi bị can, còn chứng cứ là cơ sở đảm bảo cho việc diễn đạt cáo trạng đầy đủ, chính xác và khẳng định bản cáo trạng là một văn bản pháp lý của cơ quan thực hành quyền công tố Nhà nước truy tố kẻ phạm tội ra trước Tòa án với đầy đủ nội dung hành vi phạm tội của bị can và những căn cứ pháp luật cần phải áp dụng”. Quan điểm này cơ bản là phù hợp vì thể hiện rõ được bản chất pháp lý, nội hàm của khái niệm cáo trạng.
Từ những phân tích ở trên có thể hiểu nội hàm của khái niệm cáo trạng như sau: cáo trạng là văn bản pháp lý trong TTHS thể hiện Viện kiểm sát đã quyết định truy tố một bị can ra trước Tòa án để xét xử với tội danh, điều khoản quy định trong BLHS. Nội dung của nó dựa trên cơ sở kết quả điều tra với đầy đủ diễn biến hành vi phạm tội; những chứng cứ xác định hành vi phạm tội của bị can, thủ đoạn, động cơ, mục đích phạm tội, tính chất, mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra; việc áp dụng biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế; những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS, đặc điểm nhân thân của bị can, việc thu giữ và xử lý vật chứng; nguyên nhân và điều kiện dẫn đến hành vi phạm tội cũng như tình tiết khác có ý nghĩa đối với vụ án làm cơ sở phát sinh hoạt động xét xử, giới hạn việc xét xử của Tòa án cũng như hoạt động xét hỏi, luận tội, tranh luận và đối đáp tại phiên tòa đối với bị cáo.
2. Đặc điểm của truy tố bị can
Chính vì vậy mà truy tố bị can là chức năng, nhiệm vụ quan trọng nhất của Viện kiểm sát trong công tác thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát trong giai đoạn truy tố. Hoạt động này có những đặc trưng riêng chỉ có ở giai đoạn truy tố.
2.1 Phát hiện chính xác, nhanh chóng, xử lý kịp thời mọi HVPT, không để lọt tội phạm và không làm oan người vô tội
Việc truy tố bị can thuộc thẩm quyền của Viện kiểm sát, không một cơ quan nào có thể thay thế Viện kiểm sát để thực hiện hoạt động tố tụng này. Khi có đủ cơ sở để chứng minh tội phạm, người phạm tội thì Viện kiểm sát quyết định truy tố bị can bằng bản cáo trạng. Bản cáo trạng là kết quả của hoạt động truy tố bị can nhằm buộc tội người phạm tội ra trước Tòa án để tiến hành xét xử. Khi ban hành bản cáo trạng làm phát sinh mối quan hệ giữa chức năng buộc tội và chức năng xét xử trong TTHS.
2.2 Việc truy tố bị can chỉ được thực hiện trong giai đoạn truy tố
Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, Viện kiểm sát tiến hành nhiều hoạt động tố tụng khác nhau và ban hành nhiều quyết định nhưng những quyết định thuộc về việc truy tố bị can như quyết định truy tố bị can bằng bản cáo trạng; quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung; quyết định tạm đình chỉ, quyết định đình chỉ và quyết định phục hồi vụ án chỉ có thể được ban hành trong giai đoạn truy tố.
2.3 Để có căn cứ và đảm bảo đúng quy định, VKS phải tiến hành các hoạt động tố tụng cần thiết
Tiến hành một số hoạt động điều tra; yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu chứng cứ liên quan đến vụ án hình sự; quyết định khởi tố, quyết định thay đổi, quyết định bổ sung quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can trong trường hợp phát hiện còn có hành vi phạm tội, người phạm tội khác trong vụ án chưa được khởi tố, điều tra; quyết định gia hạn, không gia hạn thời hạn truy tố, thời hạn áp dụng các biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế và thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn khác để quyết định việc truy tố. Những hoạt động trên được thực hiện trong phạm vi thẩm quyền của Viện kiểm sát khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn truy tố.
3. Các nguyên tắc cần tuân thủ trong việc truy tố bị can
3.1 Nguyên tắc bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa
Nguyên tắc bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa là một trong những nguyên tắc Hiến định, được áp dụng một cách thống nhất trong quá trình giải quyết tất cả các vụ án hình sự. Theo điều 7 BLTTHS năm 2015 quy định:
Điều 7. Bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tố tụng hình sựMọi hoạt động tố tụng hình sự phải được thực hiện theo quy định của Bộ luật này. Không được giải quyết nguồn tin về tội phạm, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử ngoài những căn cứ và trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định.
Như vậy, khi thực hiện chức năng và nhiệm vụ của mình, các cơ quan tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng phải nghiêm chỉnh tuân thủ trình tự, cách thức và thủ tục của BLTTHS nhằm bảo đảm phát hiện nhanh chóng, chính xác và xử lý nghiêm minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm và không làm oan người vô tội. Ở giai đoạn truy tố, Viện kiểm sát tiến hành các hoạt động tố tụng cần thiết, theo đúng quy định BLTTHS nhằm đảm bảo chất lượng việc truy tố, góp phần giải quyết vụ án khách quan, toàn diện và đúng quy định pháp luật.
3.2 Nguyên tắc xác định sự thật vụ án
Nguyên tắc xác định sự thật vụ án được quy định tại Điều 15 BLTTHS năm 2015 là nguyên tắc quan trọng, đảm bảo cho quá trình giải quyết vụ án được chính xác, khách quan, không để xảy ra oan sai. Đồng thời đảm bảo cho các hoạt động tố tụng phù hợp với thực tế và diễn biến của việc giải quyết vụ án. Theo nguyên tắc này, trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng khi sử dụng mọi biện pháp hợp pháp để thu thập, xác minh, kiểm tra nhằm chứng minh có tội phạm xảy ra hay không. Người bị buộc tội có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội. Nghĩa là việc có sử dụng quyền này hay không là phụ thuộc vào ý chí của người bị buộc tội. Đồng thời, khi người bị buộc tội sử dụng quyền này nhưng không chứng minh được mình vô tội thì điều đó không có nghĩa là họ có tội. Nếu vi phạm nguyên tắc này sẽ dẫn tới việc giải quyết vụ án không khách quan và vi phạm những quy định của pháp luật.
Ngoài việc thu thập chứng cứ buộc tội, các cơ quan tiến hành tố tụng nói chung và Viện kiểm sát nói riêng cần phải làm rõ những chứng cứ gỡ tội cũng như tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS và các tình tiết khách quan của vụ án. Trên cơ sở đó, Viện kiểm sát quyết định việc truy tố bị can bằng bản cáo trạng hoặc trả hồ sơ để điều tra bổ sung khi còn thiếu chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội hoặc quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ, phục hồi vụ án khi có căn cứ theo luật định.
3.3 Nguyên tắc suy đoán vô tội
Quy định này xuất phát từ tình huống của hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, khi có sự không rõ ràng trong việc xác định căn cứ TNHS, các tình tiết liên quan đến tội và lỗi của người bị buộc tội mà cả quá trình tố tụng và sự nỗ lực của các cơ quan tiến hành tố tụng đã không thể làm rõ, dẫn đến mâu thuẫn giữa các hướng giải quyết mà chính các cơ quan đó không thể khắc phục được. Quá trình tố tụng phải kết thúc bằng việc xác định rõ người bị buộc tội có hay không có tội. Để có được kết luận đó, các cơ quan tiến hành tố tụng phải trên cơ sở nhận thức người đó được suy đoán vô tội cho đến khi lỗi của họ được chứng minh. TTHS là một lĩnh vực nhạy cảm và phức tạp, liên quan trực tiếp đến các quyền cơ bản như quyền sống, quyền tự do thân thể, quyền tự do tài sản... của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Vì vậy, khi chưa có bản án kết tội của Tòa án phát sinh hiệu lực pháp luật thì những người này không bị coi là có tội.
Nội dung của nguyên tắc suy đoán vô tội gồm các yếu tố sau:
+ Nghĩa vụ chứng minh thuộc về các cơ quan tiến hành TTHS, người bị buộc tội có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội, họ có thể dùng quyền này bảo vệ mình, chứ không có nghĩa vụ chứng minh. Người bị buộc tội phải được coi là vô tội cho tới khi hành vi phạm tội và lỗi của họ được các cơ quan tiến hành tố tụng chứng minh trên cơ sở xác định đúng đối tượng chứng minh và giới hạn chứng minh trong vụ án hình sự.
+ Hành vi và lỗi cũng như các yếu tố khác của cấu thành tội phạm chỉ có thể được xác định bởi một bản án đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án, cơ quan thực hiện quyền tư pháp. Nghĩa là chỉ Tòa án mới có quyền phán quyết về việc một cá nhân (hay pháp nhân) phạm tội. Bất cứ cơ quan, tổ chức nào không có đặc quyền này. Các quyết định của Hội đồng xét xử tại phiên tòa phải dựa vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến giải quyết vụ án của Kiểm sát viên, của người bào chữa, bị cáo, nhân chứng, nguyên đơn, bị đơn và những người có quyền, lợi ích hợp pháp để ra bản án, quyết định đúng pháp luật.
+ Mọi chứng cứ còn hoài nghi trong vụ án cần được giải thích theo hướng có lợi cho người bị buộc tội. Trong quá trình chứng minh, các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải làm rõ những mối nghi ngờ này. Trong trường hợp không thể làm rõ thì các chứng cứ chưa rõ ràng cần được giải thích theo hướng có lợi cho người bị buộc tội. Khi không đủ và không thể làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kết luận người bị buộc tội không có tội.
3.4 Nguyên tắc không ai bị kết án hai lần vì một tội phạm
Nguyên tắc này được ghi nhận trong Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 (ICCPR): “Không ai bị đưa ra xét xử hoặc bị trừng phạt lần thứ hai về cùng một tội phạm mà người đó đã bị kết án hoặc đã được tuyên trắng án phù hợp với pháp luật và thủ tục tố tụng hình sự của mỗi nước” và lần đầu tiên được nội luật hóa ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013. Việc truy cứu TNHS một hành vi phạm tội, pháp luật nước ta cũng như các nước trên thế giới đều tuân theo nguyên tắc: một hành vi phạm tội chỉ bị xử lý một lần. Vì vậy, khi khởi tố vụ án hình sự và suốt quá trình điều tra, truy tố, xét xử, nếu ở giai đoạn nào phát hiện hành vi phạm tội đang bị khởi tố đã có một bản án hoặc quyết định đình chỉ vụ án có hiệu lực pháp luật thì các cơ quan tiến hành tố tụng không được khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử người có hành vi đó nữa. Nguyên tắc này thể hiện sự nhân đạo, chính nghĩa, công bằng trong pháp luật hình sự, thiết lập sự công bằng giữa lợi ích công và lợi ích riêng của cá nhân. Đối với người đã bị kết án bằng một bản án có hiệu lực của Tòa án, quyết định đình chỉ điều tra hay đình chỉ vụ án giải thoát cho họ không bị truy cứu TNHS hai lần về cùng một hành vi phạm tội.
Tuy nhiên, việc xem xét lại tính có căn cứ và hợp pháp của bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật không phải là xét xử lần thứ hai đối với hành vi phạm tội mà họ đã được xét xử, không vi phạm nguyên tắc này. Việc xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm là thủ tục có tính chất tương đối đặc biệt để khắc phục sai lầm trong bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án và đưa ra phương án khắc phục những sai lầm này mà không phải xét xử lần nữa với người đã bị kết án. Pháp luật quy định nguyên tắc không ai bị kết án hai lần vì một tội đảm bảo chính sách pháp luật hình sự của Nhà nước ta là một hành vi gây nguy hiểm cho xã hội thì chỉ bị xử lý một lần. Có thể khẳng định, nguyên tắc này góp phần tích cực trong việc phòng chống oan sai, hạn chế việc cơ quan tiến hành tố tụng quy kết người không phạm tội. Theo đó, các cơ quan tiến hành tố tụng không được khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử đối với người thực hiện hành vi phạm tội khi hành vi gây nguy hiểm cho xã hội của họ đã bị kết tội bằng bản án có hiệu lực pháp luật.
3.5 Nguyên tắc trách nhiệm thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật
Nguyên tắc trách nhiệm thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật TTHS là nguyên tắc cơ bản được quy định tại Điều 20 BLTTHS năm 2015, thể hiện vị trí, vai trò của Viện kiểm sát trong việc thực hành quyền công tố, quyết định việc truy cứu TNHS đối với người phạm tội và kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng.
Hoạt động thực hành quyền công tố phải đảm bảo đồng thời hai mục tiêu là không làm oan người vô tội, không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội. Trong khi đó, Viện kiểm sát trực tiếp giám sát các hoạt động TTHS nhằm kịp thời phát hiện, phòng ngừa, khắc phục những vi phạm pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng, qua đó đảm bảo cho mọi hoạt động tố tụng được tiến hành nghiêm chỉnh, thống nhất và đúng pháp luật.
Trân trọng!
Bộ phận tư vấn pháp luật hình sự - Công ty Luật Minh Khuê