Đó là những thiệt hại về vật chất xảy ra cho con tầu hay cho chuyến hàng, cũng như một số chi phí phải bỏ ra cho con tầu hay chuyến hàng.
Những thiệt hại vật chất ấy phải mang tính chất đặc biệt hay ngẫu nhiên (chẳng hạn như không phải do sự hao mòn). Và những chi phí cũng vậy, phải mang tính chất bất thường. Những chi phí cho sự khai thác kinh doanh bình thường của con tầu không phải là tổn thất, kể cả những mất mát đến với chuyến hàng nếu không có những sự cố xảy ra.
Người ta phân biệt hai loại tổn thất: tổn thất chung và tổn thất riêng.

1. Tổn thất chung

Tổn thất chung đó là sự thiệt hại vật chất hay sự chi phí do thuyền trưởng tự quyết định, nhằm loại trừ một nguy cơ thật sự đang đe dọa làm mất toàn bộ hay một phần con tầu và chuyến hàng.Thuyền trưởng không có quyền yêu cầu đóng góp cho những biện pháp chỉ có ích hay khẩn cấp, những quyết định không dựa trên cơ sở một hiểm họa nào.
Hơn nũa, thuyền trưởng cần phải lấy trước ý kiến của các bên có liên quan đến chuyến hàng có trên con tầu, cũng như ý kiến của các cán bộ chủ chốt trong thuyền bộ.

1.1. Liệt kê tổn thất

a) Thiệt hại tổn thất chung.
Đây là những thiệt hại do tác động vật chất gây ra:
- Hoặc cho chuyến hàng, làm cho nó bị giảm bớt về số lượng hay về giá trị (chẳng hạn như hàng hóa bị hư hỏng do nước dùng để dập tắt đám cháy ở một khoang hay để ngăn chặn lan sang khoang bên cạnh);
- Hoặc cho con tầu, làm cho nó bắt buộc phải sữa chữa để phục hồi lại trạng thái như trước hoặc sự an toàn của nó (chẳng hạn như để neo trôi hay cố ý mắc cạn v.v...)
b) Chi phí tổn thất chung.
Đó là những chi tiêu bất thường do thuyền trưởng quyết định vì lợi ích của cộng đồng tầu va chuyến hàng để tránh khỏi một rủi ro nghiêm trọng có thể xảy ra do một sự cố bất ngờ của giao thông trên biển, như chi phí về trục vớt, chuộc lại, kéo dắt, tiền công đặc biệt cho thuyền bộ hay cho người thứ bav.v...

1.2. Xử lý những tổn thất

Mức đóng góp mà thuyền trưỏng đã ấn định cho một trong những thành viên của cộng đồng (người khai thác tầu, người giao hàng v.v...) phải được hoàn lại cho người này do tất cả những người đã được hưởng lợi do có sự đóng góp ấy, tương ứng với giá trị hàng hóa đã được cứu nạn của họ.Như vậy, phải định rõ mức thiệt hại phải bồi hoàn, mức giá trị đã được cứu nạn trước khi tiến hành phân bổ theo tỷ lệ.Những qui tắc phải được tôn trọng đã được ấn định ở các điều 29 và tiếp theo của luật ngày 3-7-1967:Toàn bộ các công việc ấy gọi là xử lý tổn thất hay "đền bù hàng hải".Thủ tục ấy được tiến hành bởi mọi đương sự trước tòa án thương mại nơi cảng đỡ hàng.
Người khái thác tầu nào cho rằng tình trạng tầu của mình không đáng cho việc chi trả phần đóng góp đó thì có thể tự bỏ tầu của mình, và các người giao hàng cũng vậy, có thể từ bỏ những hàng hóa của mình cho bên có yêu cầu.

2. Những tổn thất đặc biệt

Đây là những thiệt hại xảy ra trong những hoàn cảnh khác biệt với các điều kiện của tổn thất chung.Trách nhiệm bồi thường thiệt hại thuộc về người nào có lỗi gây ra hậu quả đó.
Một trong những tai nạn nghiêm trọng nhất có thể xảy ra cho tầu biển cũng như cho chuyến hảng, là tầu nọ đâm va với tầu kia. Việc bồi thường thiệt hại gây ra trong trường hợp tai nạn đâm những tàu có liên quan
- Trong trường hợp xảy ra tai hạn đâm va giữa các tầu biển với nhau, hay giữa các tầu biển với tầu sông, thì những khoản đền bù do những thiệt hại gây ra cho các tàu, các tài sản, hay cho những người có mặt trên tàu, được xử lý theo những điều khoản của chương này, không phân biệt ranh giới, vùng nước nơi xảy ra đâm va.
Tất cả những phương tiện nổi, trừ những phương tiện nào đã bị buộc ở một nơi cố định, đều được coi (tùy theo từng trường hợp) là các tàu biển hoặc các tàu sôhg trong việc áp dụng điều khoản trên.
Nguyên nhân gây ra tai nạn đâm va.Nếu tai nạn đâm va là do ngẫu nhiên, hoặc thuộc trường hợp bất khả kháng,hoậc không xác định được nguyên nhân, thì thiệt hại của tàu nào do tàu đó chịu, kể cả trường hợp các tàu hoặc một trong những tàu đó có thể đã thả neo khi xảy ra đâm va.
- Nếu tai nạn đâm va là do lỗi của một trong các con tàu, thì trách nhiệm đền bù thiệt hại thuộc về tàu đã phạm lỗi. 
-  Nếu có lỗi chung của tất cả các tàu, thì trách nhiệm bồi thường được phân bồ tương đương với mức độ lỗi của mỗi tàu... Tuy nhiên, tùy theo hoàn cảnh, khi mức độ lỗi không xác định được cụ thể, hoặc khi mức độ lỗi ngang nhau thì trách nhiệm bồi thường được phân bố đều cho tất cả các tàu.
Những thiệt hại gây ra hoặc cho các tàu,hoặc cho chuyến hàng, hoặc cho tài sản hay của cải khác của các thuyền bộ, của hành khách hay của những người khác có mặt trên tàu sẽ do những tàu lỗi gánh chịu theo tỷ lệ nói trên, một cách riêng biệt đối với người thứ ba.
Những tàu có lỗi phải chịu trách nhiệm liên đới đối với người thứ ba về những thiệt hại do chết chóc và thương tật đã gây ra, trừ quyền được xin hoàn lại của tàu nào đã phải đền bù một phần quá lớn so với phần mà họ thật sự phải gánh chịu theo khoản nói trên của điều này.

3. Tổn thất bảo hiểm hàng hải

Bảo hiểm hàng hải là những nghiệp vụ bảo hiểm có liên quan đến hoạt động của con tàu, con người hoặc của hàng hoá được vận chuyển trên biển hay những nghiệp vụ bảo hiểm những rủi ro trên biển, trên bộ, trên sông có liên quan đến hành trình đường biển

- Bảo hiểm hàng hoá XNK chuyên chở bằng đường biển: đối tượng bảo hiểm là hàng hoá XNK được vận chuyển trên biển và các chi phí có liên quan
- Bảo hiểm thân tàu: đối tượng bảo hiểm là vỏ tàu, máy móc thiết bị trên tàu và các chi phí hợp lý (chi phí dọc hành trình, chi phí ứng trước lương cho sỹ quan thuỷ thủ, một phần trách nhiệm mà chủ tàu phải chịu trong trường hợp hai tàu đâm va nhau)
- Bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ tàu: bảo hiểm những thiệt hại phát sinh từ trách nhiệm của chủ tàu trong quá trình sở hữu, kinh doanh, khai thác tàu biển đối với người khác

- Tổn thất bảo hiểm hàng hải là những hư hại, những mất mát của đối tượng bảo hiểm do những rủi ro bảo hiểm gây ra.

- Bảo hiểm hàng hải là những nghiệp vụ liên quan đến các hoạt động của con người, tàu, hàng hóa được vận chuyển qua đường biển, hoặc là những nghiệp vụ bảo hiểm có liên quan đến hành trình chuyển chở hàng hóa trên biển.

Tổn thất bảo hiểm hàng hải chia làm hai loại: Tổn thất bộ phận và tổn thất toàn bộ. 

1. Tổn thất bộ phận

Là những tổn thất mà chỉ mất mát hay hư hại ở một bộ phận của đối tượng bảo hiểm trong hợp đồng bảo hiểm mà thôi. Trong tổn thất bộ phận cũng được chia ra làm 2 tổn thất nhỏ : tổn thất riêng và tổn thất chung.

Tổn thất riêng  : Có thể là do thiên tai hoặc do tại nạn không lường trước gây ra tổn thất của từng quyền lợi bảo hiểm. Để giúp các bạn hiểu rõ hơn về tổn thất riêng này, chúng tôi sẽ đưa ra 1 ví dụ cụ thể như sau: Trong quá trình vận chuyển, không may hàng hóa bị dính mưa hoặc dính nước biển làm cho chúng bị mốc, bị hỏng thì chính chủ hàng hóa phải là người chịu trách nhiệm hoặc họ sẽ đòi bồi thường từ chính công ty bảo hiểm chứ không được phân bổ hay đùn đẩy trách nhiệm này cho chủ tàu hoặc các chủ hàng khác. Trường hợp này, chủ hàng hóa đang phải chịu một tổn thất riêng do yếu tố thiên nhiên gây nên.

Tổn thất chung  : Là những thiệt hại xảy ra do những chi phí hay sự hy sinh cố ý của những người trên tàu với mục đích cứu tàu, cứu hàng hóa khỏi tai nạn trong hành trình chung trên biển. Để được xếp vào tổn thất chung, có 2 nguyên tắc như sau:

- Mục đích của sự tổn thất chung là vì sự an toàn chung của chủ tàu và hàng hóa đang được lưu thông trên biển.

-  Những chi phí phát sinh để tránh hiểm họa cho tàu hoặc cho hàng hòa mặc dù những chi phí ấy không thực sự cần thiết cũng được tính là tổn thất chung.

Theo đó, Tổn thất chung lại được chia làm 2 loại đó là

- Hy sinh tổn thất chung : những chi phí phát sinh hoặc những thiệt hại tính ra do những hậu quả trực tiếp của hành động tổn thất chung. Ví dụ như, trong trường hợp tàu bị nghiêng hay gặp gió bão lớn buộc chủ tàu phải quyết định vứt hàng hóa xuống biển để cứu tàu, do vậy toàn bộ số hàng hóa bị vứt xuống biển chính là chi phí hy sinh tổn thất chung.

- Chi phí tổn thất chung: Là chi phí phải trả cho người thứ 3 trong trường hợp cứu tàu hoặc chi phí để giúp tàu thoát nạn trong hành trình trên biển. Ví dụ như chi phí để tài ra vào cảng lánh nạn, chi phí lưu kho bãi tại cảng lánh nạn, chi phí sửa chữa tàu, chi phí nhiên liệu bị tăng thêm…

2. Tổn thất toàn bộ

Tổn thất này được đưa ra khi mức hư hại của hàng hóa lên đến 100%, đây là mức tổn thấy cao nhất của đối tượng bảo hiểm, hư hại 100% giá trị sử dụng. Tuy nhiên, trường hợp tổn thất này lại gây ra rất nhiều khó khăn cho các nhà bảo hiểm về việc tránh trục lợi bảo hiểm. Làm thế nào dể xác định được 100% hàng hóa bị tổn thất? Làm thế nào để không có hiện tượng trục lợi bảo hiểm? Vì vậy, trong tổn thất toàn bộ người ta lại chia ra làm 2 loại :

- Tổn thất toàn bộ thực tế : Là đối tượng bảo hiểm đã bị phá hủy hoàn toàn hàng hóa, hư hỏng nặng ở mức nghiêm trọng, hàng hóa không thể sử dụng được nữa :

+ Trong trường hợp cháy nổ, thối rữa, rơi vỡ, hàng hóa bị hư hỏng hoàn toàn.

+ Một số hàng hóa như kính bị vỡ, gạo bị mốc, xi măng ẩm đều không còn giá trị sử dụng.

+ Hàng vẫn sử dụng được nhưng bị mất khả năng sở hữu hoặc có thể lấy lại được nhưng chi phí quá cao : hàng chở trên tài bị chìm, hàng bị cướp biển, chủ hàng bị tước quyền sở hữu đối với hàng hóa…

+ Hàng chở trên tàu bị mất tích (Khác với trường hợp tàu bị đắm)

- Tổn thất toàn bộ ước tính  : Khi hàng hóa không thuộc vào loại hàng hóa được hưởng tổn thất ước tính ở trên. Trong luật bảo hiểm hàng hải năm 1906 cho người được bảo hiểm ở quyền này, do một rủi ro nào đó bảo hiểm trong hợp đồng bảo hiểm và người được hưởng bảo hiểm không thể tiếp tục hành trình giao hàng tại điểm đến như quy định thì người được bảo hiểm được lựa chọn giữ việc từ bỏ hàng hóa hay tiếp tục. Khi ấy, người được bảo hiểm sẽ yêu cầu tính toán đòi bồi thường tổn thất thực tế ước tính.

 Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ bộ phận luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài điện thoại số: 1900.6162 để được giải đáp.

Rất mong nhận được sự hợp tác!

Trân trọng./.

Bộ phận tư vấn pháp luật tư vấn pháp luật