Mục lục bài viết
1.Khái quát chung về pháp luật và cơ chế thực hiện, thúc đẩy quyền con người ở Việt Nam
Ngay sau khi giành được độc lập năm 1945, quyền con người, quyền công dân đã được ghi nhận trong Hiến pháp năm 1946 của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và sau đó tiếp tục được khẳng định, mở rộng trong các Hiến pháp năm 1959, 1980 và 1992 (sửa đổi, bổ sung, năm 2001). Hiến pháp 1992 đã ghi nhận một cách trang trọng, rõ ràng khẳng định của Nhà nước Việt Nam trong việc bảo vệ và thúc đẩy các quyền con người thông qua việc bảo đảm các quyền công dân (tại Điều 50)1. Nội dung các quyền con người đã được thể hiện xuyên suốt trong Hiến pháp 1992 nhưng đặc biệt được nêu tập trung tại Chương 5 (về các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân) và được cụ thể hóa trong hàng ngàn văn bản pháp luật khác của Nhà nước. Pháp luật cũng khẳng định rõ Nhà nước Việt Nam là Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân, có trách nhiệm bảo đảm và không ngừng phát huy quyền làm chủ về mọi mặt của nhân dân
Trong những thập kỷ gần đây, Nhà nước đã có nhiều nỗ lực lớn trong việc làm hài hòa hệ thống pháp luật Việt Nam với các nguyên tắc và tiêu chuẩn quốc tế về quyền con người. Xuất phát từ chủ trương không ngừng thúc đẩy quyền con người, Nhà nước Việt Nam đang tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật để bảo đảm các quyền con người được tôn trọng và thực hiện ngày càng tốt hơn
Chương này trình bày một cách khái quát khuôn khổ pháp luật hiện hành của Việt Nam về các quyền con người chủ yếu, trong đó bao gồm cơ chế thực hiện và thúc đẩy các quyền con người ở Việt Nam.
2.Quyền sống
Tương ứng với nội dung Điều 6 ICCPR, Điều 71 Hiến pháp 1992 của Việt Nam quy định: “Công dân có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm”.
Quy định trên được tái khẳng định ở Điều 32 Bộ luật dân sự (BLDS) năm 2005, trong đó nêu rằng: “Cá nhân có quyền được bảo đảm an toàn về tính mạng, sức khỏe, thân thể. Không ai được xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, thân thể của người khác”. Cũng liên quan đến quyền này, Bộ luật Hình sự (BLHS) năm 1999 được sửa đổi, bổ sung năm 2009 có một chương (Chương XII, từ Điều 93 đến Điều 122) quy định về các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người.
Giống như một số quốc gia khác trên thế giới, pháp luật Việt Nam hiện vẫn còn duy trì hình phạt tử hình, xuất phát từ yêu cầu khách quan về phòng chống tội phạm. Mặc dù vậy, trong thời gian gần đây, số điều luật có khung hình phạt tử hình trong pháp luật Việt Nam đã được giảm đi đáng kể (từ 44 điều trong BLHS năm 1985 xuống còn 29 điều trong BLHS năm 1999 và 25 điều hiện nay82). Trong vấn đề này, pháp luật hình sự Việt Nam đã quy định chặt chẽ về những giới hạn và bảo đảm về thủ tục tố tụng khi áp dụng hình phạt tử hình. Cụ thể, về giới hạn, Điều 35 BLHS năm 1999 quy định: “Tử hình là hình phạt đặc biệt chỉ áp dụng đối với những người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng. Không áp dụng hình phạt tử hình đối với người chưa thành niên phạm tội, đối với phụ nữ có thai hoặc phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi khi phạm tội hoặc khi xét xử. Không thi hành án tử hình đối với phụ nữ có thai, phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi...”. Điều này cũng quy định người bị kết án tử hình có thể được ân giảm xuống hình phạt tù chung thân nếu có đủ điều kiện theo quy định pháp luật. Về những bảo đảm tố tụng, Bộ luật Tố tụng Hình sự (BLTTHS) năm 2003 quy định các thủ tục điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án đối với những người phạm tội có khung hình phạt tử hình. Theo Điều 170 của Bộ luật này, chỉ tòa án cấp tỉnh trở lên mới có thẩm quyền xét xử sơ thẩm các vụ án có mức án tử hình và trong các vụ án này, hội đồng xét xử phải gồm hai thẩm phán và ba hội thẩm nhân dân. Điều 57 Bộ luật quy định, trong trường hợp bị can, bị cáo bị buộc tội theo khung hình phạt có mức cao nhất là tử hình thì cơ quan tố tụng phải mời luật sư bào chữa cho họ nếu như họ và gia đình không mời luật sư bào chữa. Theo Điều 258, sau khi bản án tử hình có hiệu lực pháp luật, hồ sơ vụ án phải được gửi ngay lên Tòa án nhân dân tối cao (TANDTC) và bản sao bản án phải được gửi ngay lên Viện kiểm sát nhân dân Tối cao (VKSNDTC) để trong vòng hai tháng, các cơ quan này phải quyết định kháng nghị hoặc không kháng nghị giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Cũng theo Điều này, trong thời hạn bảy ngày kể từ khi bản án có hiệu lực pháp luật, người bị kết án tử hình có quyền gửi đơn xin ân giảm lên Chủ tịch nước, và bản án chỉ được thi hành nếu không có kháng nghị giám đốc thẩm hoặc tái thẩm của TANDTC và VKSNDTC cũng như khi Chủ tịch nước bác đơn xin ân giảm của bị cáo.
Liên quan đến khía cạnh thứ hai của quyền sống (việc bảo đảm các điều kiện tồn tại của con người, đặc biệt là những đối tượng đặc biệt khó khăn), pháp luật Việt Nam từ lâu đã xác lập các chế định về bảo trợ xã hội. Khuôn khổ pháp luật về vấn đề này hiện đã khá toàn diện và ngày càng được hoàn thiện. Một hệ thống cơ sở bảo trợ xã hội (cả do Nhà nước và các tổ chức tổ chức từ thiện điều hành) đã được thiết lập trên cả nước nhằm giúp đỡ những nhóm đối tượng có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn như người già neo đơn, trẻ em mồ côi, người khuyết tật không nơi nương tựa, không thể tự lo được cho cuộc sống của bản thân...(xem thêm phần sau về các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa).
3.Quyền bình đẳng trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ một cách bình đẳng
Tương ứng với nội dung các Điều 16, 26 ICCPR, Điều 52 Hiến pháp 1992 quy định: “Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật”. Nguyên tắc hiến định này được cụ thể hóa trong nhiều văn bản pháp luật khác, cụ thể như sau:
Trong quan hệ dân sự, Điều 5 BLDS năm 2005 quy định, các bên trong quan hệ dân sự đều bình đẳng, không được lấy lý do khác biệt về dân tộc, giới tính, thành phần xã hội, hoàn cảnh kinh tế, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hoá, nghề nghiệp để đối xử không bình đẳng với nhau. Điều 2 Luật quốc tịch năm 2008 khẳng định, mọi cá nhân và thành viên của mọi dân tộc sinh sống trên đất nước Việt Nam đều bình đẳng về quyền có quốc tịch Việt Nam.
Trong quản lý nhà nước, quản lý xã hội, Hiến pháp 1992 (các Điều 53, 54); Luật bầu cử đại biểu Quốc Hội (Luật BCĐBQH) năm 1997 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2002) (Điều 1) và Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân (Luật BCĐBHĐND) năm 2003 (Điều 1) đều quy định nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng về các quyền bầu cử, ứng cử và quyền tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội.
Trong quan hệ gia đình, những quy định trong các Chương III (Quan hệ giữa vợ và chồng) và Chương V (Quan hệ giữa ông bà nội, ông bà ngoại, cháu, giữa anh, chị, em và giữa các thành viên trong gia đình) của Luật hôn nhân và gia đình (Luật HN&GĐ) năm 2000 thể hiện rõ quyền bình đẳng giữa vợ và chồng trong mọi vấn đề trong quan hệ gia đình cũng như quyền bình đẳng giữa con trai, con gái, con nuôi, con đẻ, con trong hoặc ngoài giá thú.
Trong quan hệ kinh doanh, Điều 57 Hiến pháp 1992, Điều 4 Luật doanh nghiệp năm 2005 (được sửa, đổi bổ sung năm 2009) và Điều 10 Luật thương mại năm 2005 đều khẳng định vị thế pháp lý và nguyên tắc đối xử giữa các doanh nghiệp và các thương nhân thuộc mọi thành phần kinh tế.
Trong hoạt động tố tụng, như đã nêu ở phần trên, Điều 8 Luật tổ chức TAND năm 2002 quy định, Tòa án xét xử theo nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt nam, nữ, dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần, địa vị xã hội. Điều 4 BLTTHS năm 2003 quy định: “Tố tụng hình sự tiến hành theo nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt nam, nữ, dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần, địa vị xã hội. Bất cứ người nào phạm tội đều bị xử lý theo pháp luật”. Theo Điều 8 Bộ luật TTDS năm 2004, mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, trước Toà án, không phân biệt dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hoá, nghề nghiệp... Các đương sự đều bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong tố tụng dân sự.
4.Quyền không bị bắt làm nô lệ, nô dịch hay bị cưỡng bức lao động
Tương ứng với nội dung Điều 8 ICCPR, Điều 71 Hiến pháp 1992 khẳng định nguyên tắc bất khả xâm phạm về thân thể, danh dự, nhân phẩm và an ninh cá nhân.
Cụ thể hóa nguyên tắc hiến định kể trên, trong lĩnh vực lao động, Điều 5 Bộ luật Lao động (BLLĐ) năm 1994 (đã được sửa đổi, bổ sung các năm 2002, 2006, 2007) nêu rõ: “Mọi người có quyền làm việc, tự do lựa chọn việc làm và nghề nghiệp, học nghề và nâng cao trình độ nghề nghiệp, không bị phân biệt đối xử về giới tính, dân tộc, thành phần xã hội, tính ngưỡng, tôn giáo. Cấm ngược đãi người lao động; cấm cưỡng bức lao động dưới bất kỳ hình thức nào”. Việt Nam cũng đã gia nhập Công ước về lao động cưỡng bức năm 1930 (Công ước số 29 của ILO) vào ngày 05-3-2007.
Theo Điều 19 Nghị định số 34/2008/NĐ-CP ngày 25-3-2008 của Chính phủ quy định về việc tuyển dụng và quản lý người nước ngoài làm việc tại Việt Nam, các quy định pháp luật lao động của Việt Nam, bao gồm những điều khoản cấm ngược đãi, cưỡng bức lao động đã nêu ở trên, cũng được áp d ụng v ới nh ững người lao động nước ngoài làm việc ở Việt Nam.
Về khía cạnh lao động công ích, tương ứng với nội dung Điều 8 ICCPR, Điều 80 Hiến pháp 1992 quy định: “Công dân có nghĩa vụ lao động công ích theo quy định c ủa pháp luật”. Điều này trước đây được cụ thể hóa bằng Pháp lệnh lao động công ích năm 1999; tuy nhiên, do nền kinh tế những năm qua luôn tăng trưởng mạnh, xét thấy v ấn đề lao động công ích không còn cần thiết nữa nên gần đây Nhà nước Việt Nam đã chấm dứt hiệu lực của Pháp lệnh này.
5.Quyền tự do đi lại và lựa chọn nơi ở
Tương ứng với nội dung các Điều 12, 13 ICCPR, Điều 68 Hiến pháp 1992 quy định: “Công dân có quyền tự do đi lại và cư trú ở trong nước, có quyền ra nước ngoài và từ nước ngoài về nước theo quy định của pháp luật”. Quy định này được tái khẳng định trong các Điều 48 BLDS năm 2005 và Điều 3 Luật cư trú năm 2006. Tuy nhiên, căn cứ vào nh ững hạn ch ế cho phép v ới quyền này nêu ở Điều 12 ICPPR, Điều 48 BLDS năm 2005 và Điều 3 Luật cư trú năm 2006 đồng th ời nêu rằng, quyền tự do đi lại, tự do cư trú của cá nhân có thể bị hạn ch ế theo quy ết định c ủa c ơ quan nhà nước có thẩm quyền và theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định
Cũng liên quan đến quyền tự do đi lại và cư trú, Chính phủ Việt Nam đã ban hành Nghị định 158/2005/N Đ-CP ngày 27-12-2005 về đăng ký và quản lý hộ tịch (thay thế các Nghị định trước đó về vấn đề này), trong đó bãi bỏ nhiều yêu cầu như điều kiện nhà ở, chỉ tiêu... với công dân khi đăng ký hộ khẩu ở nơi ở mới. Trước đó, Thủ tướng Chính phủ cũng đã ban hành Quy ết định s ố 957/1997/Q Đ-TTg ngày 11-11- 1997 trong đó bãi bỏ thủ tục xin thị thực xuất cảnh của công dân khi ra nước ngoài. Ngoài ra, Nhà nước Việt Nam cũng đã sửa đổi nhiều văn bản pháp luật để tạo thuận lợi cho công dân trong việc làm hộ chiếu và xuất cảnh ra nước ngoài cũng như cho người định cư ở nước ngoài hồi hương, người nước ngoài nhập cảnh vào làm ăn, sinh sống và du lịch tại Việt Nam, trong đó đáng kể là Nghị định s ố 81/2001/N Đ-CP ngày 05 - 11-2001 c ủa chính phủ đã cho phép một số đối tượng người Việt Nam định cư ở nước ngoài được mua và sở hữu nhà ở hợp pháp ở trong nước để cư trú Luật nhà ở năm 2005 được sửa đổi bổ sung năm 2009 có quyết định mở rộng và rõ ràng cho quyền sở hữu nhà ở tại Việt Nam của những người này. Ngoài ra, người nước ngoài cũng có quyền mua nhà ở chung cư tại Việt Nam theo quy định của pháp luật. Quyết định số 875/Q Đ-TTg ngày 21-11-1996 cho phép người Việt Nam định cư ở nước ngoài hồi hương được hoàn thành mọi thủ tục hộ khẩu và đăng ký cư trú trong thời gian 30 ngày; Quy ết định 135/2007/Q Đ-TTg ngày 17- 8-2007 ban hành Quy chế về miễn thị thực cho người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Việt Nam cũng đã ký kết các hiệp định, thỏa thuận về lãnh sự với nhiều quốc gia trên thế giới.
Luật Minh Khuê ( sưu tầm và biên tập)