1. Quyền làm việc và được hưởng những điều kiện làm việc thích đáng

Tương ứng với nội dung các Điều 6, 7 ICESCR, Điều 55 Hiến pháp 1992 quy định: “Lao động là quyền và nghĩa vụ của công dân”. Quy định ở Điều 55 Hiến pháp được cụ thể hoá trong Điều 49 BLDS năm 2005, theo đó mọi người đều có quyền làm việc, tự do lựa chọn việc làm, nghề nghiệp, không bị phân biệt đối xử về dân tộc, giới tính, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo. Các quy định kể trên của Hiến pháp và BLDS tiếp tục được khẳng định và cụ thể hóa trong nhiều điều khoản của BLL Đ năm 1994 (sửa đổi, bổ sung các năm 2002, 2006, 2007). Theo Điều 5 và Điều 20 Luật này, mọi người đều có quyền làm việc, tự do lựa chọn việc làm và nghề nghiệp, học nghề và nâng cao trình độ nghề nghiệp, không bị phân biệt đối xử về giới tính, dân tộc, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo. Điều 5 đồng thời nghiêm cấm ngược đãi, cưỡng bức người lao động dưới bất kỳ hình thức nào.

Liên quan đến những quyền cụ thể của người lao động, Điều 7 BLL Đ năm 1994 (được sửa đổi, bổ sung các năm 2002, 2006 và 2007, sau đây viết tắt là BLLĐ) quy định: “Người lao động được trả lương trên cơ sở thoả thuận với người sử dụng lao động nhưng không thấp hơn mức lương tối thiểu do Nhà nước quy định và theo năng suất, chất lượng, hiệu quả công việc; được bảo hộ lao động, làm việc trong những điều kiện bảo đảm về an toàn lao động, vệ sinh lao động; nghỉ theo chế độ, nghỉ hàng năm có lương và được bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật. Nhà nước quy định chế độ lao động và chính sách xã hội nhằm bảo vệ lao động nữ và các loại lao động có đặc điểm riêng”. Vấn đề thời giờ làm việc, nghỉ ngơi còn được đề cập trong Chương VII (từ Điều 68 đến 81) ủa BLL Đ với những quy định cụ thể về thời giờ làm việc trong một ngày, một tuần, thời gian làm thêm gi ờ tối đa trong một ngày, một năm, cũng như các số và các ngày nghỉ vẫn được hưởng lương của người lao động trong năm. Tương tự, vấn đề an toàn, vệ sinh lao động cũng được BLLĐ điều chỉnh bằng một chương riêng (Chương IX, từ Điều 95 đến Điều 108), trong đó nêu rõ trách nhiệm của người sử dụng lao động trong việc bảo đảm các tiêu chuẩn an toàn, vệ sinh lao động ở nơi làm việc, cũng như chế độ đối xử với người lao động không may bị tai nạn lao động. Chương VI (từ Điều 55 đến Điều 67) đề cập vấn đề thù lao của người lao động, trong đó đặt ra nghĩa vụ cho người sử dụng lao động phải trả thù lao cho người lao động không thấp hơn mức lương tối thiểu do nhà nước quy định, đồng thời quy định về các chế độ phụ cấp, tiền thưởng, nâng bậc lương, trợ cấp... và nhiều khía cạnh liên quan khác.

Những quy định kể trên của BLLĐ được cụ thể hóa trong nhiều văn bản dưới luật do Chính phủ và Bộ LĐ, TB&XH ban hành, trong đó tiêu biểu là các Nghị định số 39/2003/NĐ-CP ngày 18-4-2003 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của BLLĐ về việc làm; Nghị định số 114/2002/NĐ-CP ngày 31-12-2002 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của BLLĐ về tiền lương; Nghị định số 139/2006/NĐ-CP ngày 07-02-2006 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một điều của BLLĐ và Luật giáo dục và dạy nghề; Nghị định số 06/CP ngày 20-11-1995 của Chính phủ về quy định chi tiết một số điều của BLLĐ về an toàn lao động, vệ sinh lao động (được sửa đổi, bổ sung một số điều vào năm 2002)...Ngoài ra Nhà nước Việt Nam ban hành một số Luật khác như Luật dạy nghề năm 2006, Luật người Việt Nam đi làm việc tại nước ngoài theo hợp đồng năm 2006, v.v.. để điều chỉnh cụ thể hơn các quan hệ lao động có liên quan.

 

2. Quyền học tập

Tương ứng với nội dung các Điều 13, 14 ICESCR, Điều 59 Hiến pháp 1992 quy định: “Học tập là quyền và nghĩa vụ của công dân. Bậc tiểu học là bắt buộc, không phải trả học phí. Công dân có quyền học văn hoá và học nghề bằng nhiều hình thức. Học sinh có năng khiếu được Nhà nước và xã hội tạo điều kiện học tập để phát triển tài năng. Nhà nước có chính sách học phí, học bổng. Nhà nước và xã hội tạo điều kiện cho trẻ em khuyến tật, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt kho khăn khác được học văn hoá và học nghề phù hợp”. Quy định kể trên của Hiến pháp được cụ thể hóa trong Luật phổ cập giáo dục tiểu học năm 1991, Luật giáo dục năm 2005 và Luật dạy nghề năm 2006. Luật phổ cập giáo dục tiểu học năm 1991 xác định, giáo dục tiểu học ở Việt Nam là phổ cập, bắt buộc và miễn phí. Luật này cũng bao gồm nhiều quy định cụ thể nhằm bảo đảm quyền được giáo dục tiểu học miễn phí cho tất cả mọi trẻ em ở Việt Nam. Theo Điều 10 Luật giáo dục năm 2005, mọi công dân không phân biệt dân tộc, tôn giáo, tín ngưỡng, nam nữ, nguồn gốc gia đình, địa vị xã hội, hoàn cảnh kinh tế đều bình đẳng về cơ hội học tập. Điều này cũng quy định trách nhiệm của nhà nước và cộng đồng trong các vấn đề như: thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục, tạo điều kiện để ai cũng được học hành; giúp đỡ để người nghèo được học tập, tạo điều kiện để những người có năng khiếu phát triển tài năng; ưu tiên, tạo điều kiện cho con em dân tộc thiểu số, con em gia đình ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, đối tượng được hưởng chính sách ưu đãi, người tàn tật, khuyết tật và đối tượng được hưởng chính sách xã hội khác thực hiện quyền và nghĩa vụ học tập của mình. Điều 11 Luật này quy định, cùng với giáo dục tiểu học, giáo dục trung học cơ sở là cấp học phổ cập; nhà nước quyết định kế hoạch phổ cập giáo dục, bảo đảm các điều kiện để thực hiện phổ cập giáo dục trong cả nước. Để thực hiện các quy định của Luật giáo dục năm 2005, các cơ quan nhà nước đã ban hành một số văn bản hướng dẫn trong đó quan trọng nhất là: Nghị định số Nghị định số 75/2006/NĐ-CP ngày 02-8-2006 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật giáo dục; Nghị định số 61/2006/NĐ-CP ngày 20-6-2006 về chính sách đối với nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục công tác ở trường chuyên biệt, ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; Nghị định số 88/2001/NĐCP ngày 22-11-2001 của Chính phủ về thực hiện phổ cập giáo dục trung học cơ sở... Cũng liên quan đến vấn đề này, xuất phát từ quan điểm coi giáo dục là quốc sách hàng đầu, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Chiến lược phát triển giáo dục 2001-2010 và Kế hoạch hành động quốc gia giáo dục cho mọi người giai đoạn 2003-2015,v.v.., nhằm mục tiêu tạo bước chuyển biến cơ bản về chất lượng giáo dục, thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục và tạo cơ hội học tập ngày càng tốt hơn cho các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là ở các vùng còn nhiều khó khăn.

 

3. Quyền được chăm sóc sức khỏe

Tương ứng với nội dung của Điều 12 ICESCR, Điều 61 Hiến pháp 1992 quy định: “Công dân có quyền được hưởng chế độ bảo vệ sức khoẻ. Nhà nước quy định chế độ viện phí, chế độ miễn, giảm viện phí”.

Quy định kể trên của Hiến pháp được cụ thể hóa trong nhiều văn bản pháp luật, trong đó đặc biệt quan trọng là Luật bảo vệ sức khỏe nhân dân năm 1989. Điều 1 Luật này nêu rõ, công dân có quyền được bảo vệ sức khoẻ, nghỉ ngơi, giải trí, rèn luyện thân thể; được bảo đảm vệ sinh trong lao động, vệ sinh dinh dưỡng, vệ sinh môi trường sống và được phục vụ về chuyên môn y tế. Theo Điều 23 Luật này, mọi người khi ốm đau, bệnh tật, bị tai nạn được khám bệnh, chữa bệnh tại các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh ở nơi công dân cư trú, lao động, học tập. Người bệnh được chọn thầy thuốc hoặc lương y, chọn cơ sở khám bệnh, chữa bệnh và ra nước ngoài để khám bệnh, chữa bệnh. Trong trường hợp cấp cứu, người bệnh được cấp cứu tại bất kỳ cơ sở khám bệnh, chữa bệnh nào.

Cũng liên quan đến hoạt động chăm sóc sức khỏe và quyền được chăm sóc sức khỏe, Quốc Hội đã thông qua Luật bảo hiểm y tế năm 2008, Luật hoạt động chữ thập đỏ năm 2008, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt các Chiến lược quốc gia về chăm sóc sức khỏe sinh sản, dinh dưỡng, chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân giai đoạn 2001-2010; Chiến lược Dân số giai đoạn 2001-2010; Chương trình mục tiêu quốc gia Dân số và Kế hoạch hóa Gia đình đến năm 2010; Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020. Đặc biệt, ngày 15-10-2002, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 139/2002/Q Đ-TTg về việc khám, chữa bệnh cho người nghèo, tạo điều kiện cho mọi công dân đều có quyền được chăm sóc sức khỏe, v.v..

 

4. Quyền được bảo trợ xã hội

Tương ứng với nội dung của Điều 9 ICESCR, BLL Đ đề cập vấn đề bảo hiểm xã hội trong một chương riêng (Chương XII). Theo Điều 140 BLLĐ, Nhà nước quy định chính sách về bảo hiểm xã hội nhằm từng bước mở rộng và nâng cao việc bảo đảm vật chất, góp phần ổn định đời sống cho người lao động và gia đình trong các trường hợp người lao động ốm đau, thai sản, hết tuổi lao động, chết, bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, mất việc làm, gặp rủi ro hoặc các khó khăn khác. Có hai loại hình bảo hiểm xã hội bắt buộc hoặc tự nguyện, được áp dụng đối với từng loại đối tượng và từng loại doanh nghiệp để bảo đảm cho người lao động được hưởng các ch ế độ bảo hiểm xã h ội thích hợp. Điều 141 BLLĐ quy định, loại hình bảo hiểm xã hội bắt bu ộc được áp dụng đối với những doanh nghiệp sử d ụng từ 10 người lao động trở lên. Tại những doanh nghiệp này, người sử dụng lao động, người lao động phải đóng bảo hiểm xã hội và người lao động được hưởng các chế độ trợ cấp bảo hiểm xã hội ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thai sản, hưu trí và tử tuất. Người lao động làm việc ở những nơi sử dụng dưới 10 người lao động, hoặc làm những công việc thời hạn dưới ba tháng, theo mùa vụ, hoặc làm các công việc có tính chất tạm thời khác thì các khoản bảo hiểm xã h ội được tính vào tiền lương do người s ử d ụng lao động trả để người lao động tham gia bảo hiểm xã h ội theo loại hình tự nguyện hoặc  ự lo liệu về bảo hiểm.

Theo Điều 149, qu ỹ bảo hiểm xã hội được hình thành từ các nguồn:

(a) Người  sử dụng lao động đóng bằng 15% so v ới t ổng qu ỹ tiền lương; 

(b) Người lao động đóng bằng 5% tiền lương;

(c) Nhà nước đóng và hỗ trợ thêm và

(d) Các nguồn khác. Hiện tại ở Việt Nam, chế độ bảo hiểm xã hội bao gồm bảo hiểm xã hội bắt buộc (áp dụng cho người làm công ăn lương khu vực Nhà nước, khu vực tư nhân), bảo hiểm xã hội tự nguyện (áp dụng cho m ọi tầng lớp nhân dân ngoài đối tượng của bảo hiểm bắt bu ộc) và bảo hiểm th ất nghiệp. Chế độ bảo trợ xã hội đã được thực hiện từ lâu ở Việt Nam nhằm hỗ trợ, giúp đỡ về vật chất và tinh thần cho người già cô đơn, trẻ mồ côi, người tàn tật nặng...

Vấn đề này trước đó được quy định trong rất nhiều văn bản pháp luật, tuy nhiên, ngày 13-4-2007, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 67/2007/NĐ-CP về chính sách tr ợ giúp các đối tượng bảo trợ xã hội. Nghị định này đã thay th ế t ất cả các văn bản pháp luật trước đó về vấn đề này, đồng thời mở rộng cả phạm vi và mức trợ cấp cho các đối tượng gặp khó khăn trong xã h ội. Thêm vào đó, ngày 30-5-2008, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 68/2008/NĐ-CP quy định điều kiện, thủ tục thành lập, tổ ch ức, hoạt động và giải thể cơ sở bảo trợ xã hội nhằm tạo cơ s ở pháp lý cho việc xã h ội hóa hoạt động xã h ội quan tr ọng này ở Việt Nam. Dưới đây là bảng tổng hợp khái quát các quy định về quyền kinh tế, xã h ội, văn hóa trong pháp luật Việt Nam so sánh v ới các tiêu chuẩn quốc tế có liên quan.

 

5. Kết hợp phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội với xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân

Quán triệt sâu sắc quan điểm “Kết hợp chặt chẽ, hiệu quả giữa kinh tế, văn hóa, xã hội, đối ngoại với quốc phòng, an ninh và giữa quốc phòng, an ninh với kinh tế, văn hóa, xã hội và đối ngoại”1, nên các quy hoạch, kế hoạch, dự án của các bộ, ngành, địa phương luôn gắn với xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân và được cơ quan chức năng của Bộ Quốc phòng, cơ quan quân sự các cấp tham gia ý kiến, thẩm định chặt chẽ. Quá trình thực hiện đã có sự phối hợp giữa các bên ngay từ khi chuẩn bị đến khâu xây dựng quy hoạch, kế hoạch, tạo sự gắn kết, đồng thuận cao giữa các cấp, các ngành, các địa phương và nhân dân đồng tình ủng hộ; gắn xây dựng các dự án kinh tế trọng điểm quốc gia, các khu kinh tế mở, khu chế xuất tập trung với xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân, khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố trên cả nước, v.v. Tuy nhiên, việc kết hợp phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội với xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân trên một số lĩnh vực, địa bàn, trong từng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch có lúc, có nơi hiệu quả chưa cao; cơ chế hoạt động lãnh đạo, quản lý, điều hành thiếu chặt chẽ, việc tổ chức, triển khai thực hiện ở một số ngành, lĩnh vực và địa phương chưa chủ động, thiếu tích cực và đồng bộ; nội dung, phương thức kết hợp chậm đổi mới, chưa theo kịp sự phát triển của kinh tế thị trường, 

Luật Minh Khuê (sưu tầm và biên tập)