Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm phải gửi ngay cho Tòa án đã ra bản án, quyết định đã có
hiệu lực pháp luật bị kháng nghị, người bị kết án, cơ quan thi hành án hình sự, cơ quan thi hành án dân
sự có thẩm quyền và những người khác có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến nội dung kháng nghị.
1.Căn cứ kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm
>> Xem thêm: Nguyên tắc “Bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự”
Căn cứ kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm được quy định tại Điều 371 Bộ luật TTHS 2015. Các bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm khi có một trong ba căn cứ sau:
Thứ nhất, kết luận trong bản án, quyết định của Tòa án không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án.
So sánh với quy định trước đây, Bộ luật TTHS 2015 đã quy định cụ thể chủ thể của quyết định, bản án bị kháng nghị giám đốc thẩm là Tòa án. Quy định mới không làm thay đổi cơ bản nội dung của căn cứ mà chỉ có tính chất làm rõ hơn đối tượng của kháng nghị giám đốc thẩm. Sự bổ sung này là cần thiết để xác định cụ thể đối tượng của kháng nghị giám đốc thẩm phải là các bản án, quyết định của Tòa án.
"Kết luận trong bản án hoặc quyết định của Tòa án không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án" là trường hợp Hội đồng xét xử đưa ra những kết luận không đúng với những gì có thật đã xảy ra và các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được kiểm tra tại phiên tòa. Tất cả kết luận của Tòa án được thể hiện trong bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật. Các kết luận này bao gồm nội dung vụ án, quan điểm, nhận định, đánh giá của Tòa án về nội dung vụ án, các chứng cứ, tài liệu được sử dụng để chứng minh tội phạm, quyết định về tội danh, hình phạt, mức bồi thường, án phí… Các kết luận của Tòa án căn cứ vào chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án và được kiểm tra tại phiên tòa. Kết luận trong bản án hoặc quyết định của Tòa án không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án có thể xuất phát từ ý chí chủ quan của Hội đồng xét xử. Đó là trường hợp mặc dù các chứng cứ để kết tội bị cáo đã đầy đủ, hợp pháp nhưng Hội đồng xét xử đánh giá không đúng về tội danh, khung hình phạt... đối với bị cáo. Cũng có những trường hợp kết luận không phải của Tòa án nhưng Hội đồng xét xử trích dẫn, sử dụng trong bản án thì vẫn phải coi là kết luận của Tòa án không phù hợp với các tình tiết khách quan của vụ án. Chẳng hạn trong quá trình điều tra, truy tố, bị cáo bị bức cung, nhục hình nên khai nhận tội. Tòa án sử dụng lời khai nhận tội này làm chứng cứ để buộc tội bị cáo dẫn đến việc kết án không đúng người.
Kết luận không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án có thể do lỗi chủ quan hoặc khách quan. Trường hợp trong quá trình xác định sự thật của vụ án, các cơ quan tiến hành tố tụng có vi phạm pháp luật trong việc thu thập chứng cứ để chứng minh tội phạm thì những kết luận trong bản án, quyết định của Tòa án sẽ không “phù hợp với các tình tiết khách quan” của vụ án vì các căn cứ để đi đến kết luận đã bị tác động bởi ý thức chủ quan của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Việc Tòa án đưa ra kết luận mà không đủ chứng cứ hoặc trên cơ sở sử dụng những chứng cứ, tài liệu không bảo đảm tính hợp pháp, không được thu thập theo trình tự, thủ tục được quy định trong luật TTHS mới là căn cứ để kháng nghị giám đốc thẩm. Ngược lại, nếu như Điều tra viên, Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử không biết được các “tình tiết khách quan” trong quá trình chứng minh tội phạm dẫn đến kết luận không đúng sự thật khách quan của vụ án thì lại là căn cứ để kháng nghị tái thẩm. Vì vậy, để phân biệt giữa căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm và căn cứ kháng nghị tái thẩm, nên thay đổi cụm từ “tình tiết khách quan” bằng “chứng cứ của vụ án” thì phù hợp và rõ ràng hơn.
Ngoài ra, Bộ luật TTHS hiện hành chưa quy định cụ thể hoặc hướng dẫn thế nào là “không phù hợp với tình tiết khách quan”. Việc đánh giá vi phạm pháp luật trong bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án mang tính chủ quan, phụ thuộc vào trình độ, kinh nghiệm của các chủ thể có thẩm quyền. Đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến việc kháng nghị giám đốc thẩm phải rút hoặc không được chấp nhận. Tỷ lệ kháng nghị phải rút hoặc không được Hội đồng giám đốc thẩm chấp nhận trong 10 năm, từ 2009 đến 2018 chiếm 10,2% tổng số kháng nghị giám đốc thẩm. Nghiêm trọng hơn, một số quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng giám đốc thẩm Tòa án cấp dưới bị Hội đồng giám đốc thẩm TAND tối cao hủy để điều tra lại (từ năm 2009 đến năm 2018, có 60/1472 quyết định giám đốc thẩm bị hủy để điều tra lại hoặc xét xử lại).
Thứ hai, có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử dẫn đến sai lầm nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án.
Theo Từ điển Tiếng Việt, thủ tục là “những việc cụ thể phải làm theo một trật tự quy định để tiến hành một công việc có tính chính thức”. Việc sử dụng thuật ngữ “thủ tục tố tụng” không bao hàm hết những vi phạm pháp luật TTHS trong quá trình chứng minh tội phạm bởi vì ngoài thủ tục tố tụng, luật TTHS còn quy định khác về những nguyên tắc của TTHS, những quy định chung, thẩm quyền. Nếu vi phạm nghiêm trọng các quy định này cũng có thể bị kháng nghị giám đốc thẩm, chẳng hạn khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử sai thẩm quyền; khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử đối với người mà hành vi của họ đã có bản án của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật (nguyên tắc không ai bị kết án hai lần vì một tội phạm)…
Mặt khác, căn cứ này chỉ giới hạn trong việc điều tra, truy tố, xét xử là không đầy đủ. Hoạt động khởi tố vụ án hình sự nếu có vi phạm cũng có thể bị kháng nghị giám đốc thẩm, chẳng hạn: khởi tố vụ án không có căn cứ; khởi tố vụ án hình sự trong trường hợp khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại hoặc người đại diện của bị hại quy định tại Điều 155 Bộ luật TTHS. Trường hợp này, mặc dù Cơ quan điều tra khởi tố không đúng nhưng Viện kiểm sát và Tòa án không phát hiện ra nên vẫn truy tố, xét xử; vi phạm các quy định của Bộ luật TTHS trong hoạt động chứng minh tội phạm…
Bộ luật TTHS 2015 quy định thêm một điều kiện để kháng nghị giám đốc thẩm đối với các bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án có “vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử” là những vi phạm này “phải dẫn đến sai lầm nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án”. Chúng tôi cho rằng, quy định này là không hợp lý, không đúng với bản chất, ý nghĩa và mục đích của thủ tục giám đốc thẩm.
Căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm là vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong quá trình giải quyết vụ án, còn căn cứ để kháng nghị tái thẩm liên quan đến việc xác định sự thật của vụ án. Đây là sự khác nhau cơ bản để phân biệt giữa thủ tục giám đốc thẩm và thủ tục tái thẩm. Quá trình xác định sự thật của vụ án hình sự là quá trình tiếp cận chân lý. Khi tiếp cận được sự thật, chân lý sẽ được thể hiện trong bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án. Trước khi tuyên án bằng bản án, Tòa án phải giải quyết được hai vấn đề chính: (1) làm sáng tỏ những tình tiết của sự việc phạm tội trên cơ sở xem xét tất cả các chứng cứ, tài liệu cần thiết cho việc chứng minh, đánh giá mức độ tin cậy của các chứng cứ, tài liệu này và (2) đối chiếu những tình tiết khách quan đã được làm sáng tỏ với các quy định của pháp luật để đưa ra phán quyết về trách nhiệm của bị cáo. Pháp luật TTHS đảm bảo các chứng cứ, tài liệu được thu thập để chứng minh tội phạm khách quan, tin cậy. Nếu người tiến hành tố tụng vi phạm pháp luật trong việc giải quyết vụ án thì những chứng cứ, tài liệu thu thập được không còn đảm bảo tính khách quan. Có thể vi phạm không làm ảnh hưởng đến kết quả giải quyết vụ án nhưng nếu có vi phạm thì bản án, quyết định của Tòa án cũng không xác định được sự thật khách quan của vụ án. Mặt khác, nếu vi phạm không được khắc phục thì cũng không thể kết luận được vi phạm đó có ảnh hưởng tới kết quả giải quyết vụ án hay không. Ví dụ: việc giám định lại không do người giám định khác tiến hành. Mục đích của giám định lại là để đánh giá, so sánh kết quả giám định trước và kết quả giám định sau. Nếu giám định và giám định lại được thực hiện bởi cùng một người thì hai kết quả giám định này không còn đảm bảo tính khách quan, không có giá trị so sánh, đánh giá bởi vì khi có nghi ngờ về kết quả giám định trước mới yêu cầu giám định lại. Việc cho rằng kết quả giám định lại vẫn phản ánh đúng thực tế là không có căn cứ. Cũng có thể sau khi điều tra lại, việc giám định lại lần 2 được tiến hành bởi một người khác, kết quả cũng không có gì thay đổi nhưng nếu không kháng nghị giám đốc thẩm thì cũng không thể xác định được kết luận giám định chính xác để giải quyết vụ án.
Quan điểm cho rằng có vi phạm thủ tục tố tụng nhưng nếu vi phạm đó không làm ảnh hưởng đến kết quả giải quyết vụ án thì việc kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm cũng không cần thiết là đã có sự nhầm lẫn giữa mục đích của giám đốc thẩm và mục đích của tái thẩm. Mục đích của thủ tục giám đốc thẩm là kiểm tra tính hợp pháp trong quá trình giải quyết vụ án, phát hiện những vi phạm pháp luật để khắc phục, bảo đảm tính hợp pháp của các bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án, nhằm tạo ra sự thống nhất trong việc áp dụng pháp luật. Trong khi đó, thủ tục tái thẩm đánh giá lại vụ việc thực tế để xác định lại sự thật và kết quả giải quyết vụ án, từ đó minh oan cho người vô tội, tiến hành bồi thường (nếu có), kết án đúng người, đúng tội theo pháp luật.
Ngoài ra, cũng có ý kiến cho rằng, nếu không quy định hậu quả của những sai lầm, vi phạm là dẫn đến sai lầm nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án có thể xảy ra tình trạng kháng nghị tràn lan. Tuy nhiên, nếu chỉ quan tâm đến hậu quả của những vi phạm sẽ bỏ qua rất nhiều những vi phạm nghiêm trọng trong quá trình giải quyết vụ án mà có những vi phạm xâm phạm các quyền con người cơ bản được Hiến pháp, pháp luật hình sự, TTHS bảo vệ như hành vi bức cung, nhục hình. Ngoài ra, nếu tiếp tục quy định như trên, mục đích giải quyết vụ án sẽ được đặt lên trên việc tuân thủ pháp luật, khi đó pháp luật sẽ không được tôn trọng, chỉ tồn tại hình thức.
Thứ ba, có sai lầm trong việc áp dụng pháp luật.
Căn cứ "có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật" trong Bộ luật TTHS 2015 đã khắc phục được những hạn chế của Bộ luật TTHS cũ. Tuy nhiên, phạm vi của căn cứ này là quá rộng vì "quy định của pháp luật" đã bao hàm tất cả các quy định trong các bộ luật, các luật, thông tư, hướng dẫn... khác nhau, bao hàm cả hai căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm nêu trên và các căn cứ kháng nghị tái thẩm. "Căn cứ này bao gồm tất cả những sai lầm trong việc xác định đúng sự việc thực tế đã xảy ra; sai lầm trong việc lựa chọn quy phạm pháp luật trong trường hợp cụ thể; sai lầm trong việc ra văn bản áp dụng pháp luật; sai lầm trong việc tổ chức thực hiện văn bản áp dụng pháp luật cả về nội dung và hình thức, thủ tục tố tụng".
2. Người có quyền đề nghị giám đốc thẩm
>> Xem thêm: Mớm cung là gì ? Quy định của pháp luật về hành vi mớm cung
Theo Điều 274 BLTTHS Việt Nam thì: “Người bị kết án, cơ quan, tổ chức và mọi công dân có quyền phát hiện những vi phạm pháp luật trong các bản án và quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật và thông báo cho những người có quyền kháng nghị quy định tại Điều 275 của Bộ luật này. Trong trường hợp phát hiện thấy những vi phạm pháp luật trong bản án hoặc quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, Viện kiểm sát, Tòa án phải thông báo cho người có quyền kháng nghị…”. Qua nghiên cứu luật tố tụng hình sự của các nước thấy pháp luật của Việt Nam quy định quá rộng đối tượng có quyền phát hiện, đề xuất kháng nghị giám đốc thẩm. Theo Điều 203 BLTTHS Trung Quốc, chỉ có đương sự hoặc người đại diện hợp pháp theo pháp luật hoặc họ hàng thân thích của họ có thể nộp đơn đến Tòa án nhân dân hoặc Viện kiểm sát nhân dân yêu cầu xem xét lại tính pháp lý của bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật. Điều 402 BLTTHS Liên bang Nga quy định: Người bị kết án, người được Tòa án tuyên vô tội, người bào chữa hoặc người đại diện hợp pháp của họ, người bị hại, người đại diện hợp pháp của họ cũng như Kiểm sát viên có quyền kháng cáo, kháng nghị về việc xét lại bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Điều 56 BLTTHS Cộng hòa Pháp quy định: trong trường hợp quyết định của Tòa án điều tra phúc thẩm, bản án phúc thẩm, bản án chung thẩm về trọng tội, khinh tội hoặc tội vi cảnh có vi phạm pháp luật, thì Viện công tố hoặc các bên bị thiệt hại có thể kháng cáo, kháng nghị lên Tòa Phá án để xin hủy quyết định hoặc bản án đó. Điều 216 BLTTHS Thái Lan quy định: Các bên có quyền kháng cáo DIKA đối với bản án hay quyết định phúc thẩm. Điều 691 BLTTHS Canada chỉ quy định người bị kết án có quyền kháng cáo lên Tòa án tối cao Canada nếu bản án sơ thẩm vẫn được Tòa phúc thẩm giữ nguyên. BLTTHS của Nhật Bản lại không quy định ai có quyền phát hiện, yêu cầu xét lại bản án đã có hiệu lực pháp luật.
Việc BLTTHS Việt Nam quy định quá rộng đối tượng có quyền phát hiện, đề xuất kháng nghị giám đốc thẩm, dẫn đến tình trạng quá tải đơn thư khiếu nại yêu cầu giám đốc thẩm như thời gian qua, làm cho Tòa án, Viện Kiểm sát cấp giám đốc thẩm phải rất vất vả, nhưng vẫn không giải quyết hết được. Tình trạng này không những gây lãng phí về công sức của cơ quan và người tiến hành tố tụng, lãng phí về tiền bạc của Nhà nước, mà việc giải quyết không kịp thời, tồn động nhiều đơn thư và làm giảm lòng tin của nhân dân vào cơ quan pháp luật. Do đó, tác giả kiến nghị cơ quan có thẩm quyền cần nghiên cứu kinh nghiệm của nước ngoài, có quy định hạn chế đối tượng có quyền làm đơn khiếu nại giám đốc thẩm.
3. Các nội dung chính trong quyết định kháng nghị giám đốc thẩm
>> Xem thêm: Vướng mắc trong nhập, tách vụ án hình sự - Một số kiến nghị
Căn cứ theo điều 375 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 quy định như sau :
Điều 378. Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm
Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm có các nội dung chính:
1. Số, ngày, tháng, năm của quyết định;
2. Người có thẩm quyền ra quyết định;
3. Số, ngày, tháng, năm của bản án, quyết định bị kháng nghị;
4. Nhận xét, phân tích những vi phạm pháp luật, sai lầm của bản án, quyết định bị kháng nghị;
5. Căn cứ pháp luật để quyết định kháng nghị;
6. Quyết định kháng nghị toàn bộ hay một phần bản án, quyết định;
7. Tên của Tòa án có thẩm quyền giám đốc thẩm vụ án;
8. Yêu cầu của người kháng nghị.
4. Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm được gửi cho ai ?
1. Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm phải gửi ngay cho Tòa án đã ra bản án, quyết định đã chiệu lực pháp luật bị kháng nghị, người bị kết án, cơ quan thi hành án hình sự, cơ quan thi hành án dânsự có thẩm quyền và những người khác có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến nội dung kháng nghị.
2. Trường hợp Chánh án Tòa án nhân dân tối cao kháng nghị thì quyết định kháng nghị kèm theohồ sơ vụ án phải gửi ngay cho Tòa án có thẩm quyền giám đốc thẩm.Trường hợp Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao, Chánh án Tòa án quân sự trung ương kháng nghthì quyêt định kháng nghị kèm theo hô sơ vụ án phải được gửi ngay cho Viện kiểm sát có thẩm quyền.
Tòa án có thẩm quyền giám đốc thẩm phải gửi quyết định kháng nghị kèm theo hồ sơ vụ án choViện kiểm sát cùng cấp. Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ vụ án, Viện kiểm sát phải gửi lại hồ sơ vụ án cho Tòa án.
3. Trường hợp Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao, Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự trung ương kháng nghị thì quyết định kháng nghị kèm theo hồ sơ vụ án phải gửi ngay cho Tòa án có thẩm quyền giám đốc thẩm. Quy định liên quan đến việc thay đổi, bổ sung, rút kháng nghị?
1. Trước khi mở phiên tòa hoặc tại phiên tòa giám đốc thẩm, người kháng nghị có quyền bổ sung, thay đổi kháng nghị nếu chưa hết thời hạn kháng nghị. Việc bổ sung, thay đổi kháng nghị trước khi mở phiên tòa phải bằng quyết định và được gửi theo quy định tại khoản 1 Điều 380 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Việc bổ sung, thay đổi kháng nghị tại phiên tòa được ghi vào biên bản phiên tòa.
2. Trước khi bắt đầu hoặc tại phiên tòa giám đốc thẩm, người kháng nghị có quyền rút một phần
hoặc toàn bộ kháng nghị. Việc rút kháng nghị trước khi mở phiên tòa phải băng quyết định; việc rút
kháng nghị tại phiên tòa được ghi vào biên bản phiên tòa.
3. Trường hợp rút toàn bộ kháng nghị trước khi mở phiên tòa thì Chánh án Tòa án có thẩm quyền giám đốc thẩm ra quyết định đình chỉ xét xử giám đốc thẩm. Trường họp rút toàn bộ kháng nghị tại phiên tòa thì Hội đồng xét xử ra quyết định đình chỉ xét xử giám đốc thẩm.
Trong thời hạn 02 ngày kể từ ngày ra quyết định, Tòa án gửi quyết định đình chỉ xét xử giám đốc thẩm cho những người quy định tại khoản 1 Điều 380 của Bộ luật Tố tụng hình sự (kháng nghị giám đốc thẩm phải gửi ngay cho Tòa án đã ra bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị, người bị kết án, cơ quan thi hành án hình sự, cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền và những người khác có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến nội dung kháng nghị.) và Viện kiểm sát cùng cấp.
5. Quy định về chuyển hồ sơ vụ án để xem xét
1. Trường hợp cần thiết phải nghiên cứu hồ sơ vụ án để xem xét kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm thì Tòa án, Viện kiểm sát có thẩm quyền yêu cầu bằng văn bản để Tòa án đang quản lý hồ sơ chuyển hồ sơ vụ án.
Trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày nhận được văn bản yêu cầu, Tòa án đang quản lý hồ sơ vụ án phải chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án, Viện kiểm sát đã yêu cầu.
2. Trường hợp Tòa án và Viện kiểm sát cùng có văn bản yêu cầu thì Tòa án đang quản lý hô sơ vụ án chuyến hồ sơ cho cơ quan yêu cầu trước và thông báo cho cơ quan yêu cầu sau biết. Quy định việc tạm đình chỉ thi hành bản án, quyết định bị kháng nghị giám đốc thẩm
Người ra quyêt định kháng nghị giám đôc thâm đôi với bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật thì có quyền quyết định tạm đình chỉ thi hành bản án, quyết định đó. Quyết định tạm đình chỉ thi hành bản án, quyết định bị kháng nghị giám đốc thẩm phải gửi cho Tòa án, Viện kiểm sát nơi đã xét xử sơ thẩm, phúc thẩm và cơ quan thi hành án có thẩm quyền.
Mọi vướng mắc pháp lý liên quan đến luật hình sự, luật tố tụng hình sự về kháng nghị giám đốc thẩm - Hãy gọi ngay: 1900.6162 để được Luật sư tư vấn pháp luật hình sự trực tuyến.
Trân trọng./.
Bộ phận tư vấn pháp luật hình sự - Công ty luật Minh Khuê