1. Giới thiệu tác giả

Cuốn sách "Những nội dung cơ bản và mới trong các nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị khóa XII" do Ban tuyên giáo trung ương Đảng chủ trì biên soạn.

2. Giới thiệu hình ảnh sách

Sách Những nội dung cơ bản và mới trong các nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị khóa XII

Những nội dung cơ bản và mới trong các nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị khóa XII

Ban tuyên giáo trung ương Đảng

Nhà xuất bản chính trị quốc gia sự thật

3. Tổng quan nội dung sách

Nghị quyết của Đảng là những định hướng phát triển đất nước, là một trong những phương thức lãnh đạo quan trọng của Đảng, thể hiện ý chí, vai trò lãnh đạo của Đảng đối với các lĩnh vực của đời sống xã hội. Do đó, sau khi nghị quyết được ban hành, cấp ủy các cấp phải tổ chức học tập, quán triệt trong cán bộ, đảng viên và tuyên truyền sâu rộng đến nhân dân. Đây là một trong những nhiệm vụ quan trọng, then chốt nhằm tạo sự thống nhất nhận thức và hành động của cả hệ thống chính trị, sự đồng thuận trong nhân dân, là tiền đề cho sự thành công trong tổ chức thực hiện nghị quyết, đảm bảo nghị quyết đi vào cuộc sống.

Sinh thời, Bác Hồ luôn đánh giá cao vai trò của việc học tập nghị quyết của Đảng. Người cho rằng: "Cần nghiên cứu sâu để thấm nhuần tinh thần nghị quyết; nghiên cứu càng sâu thì càng thêm phấn khởi, hoàn thành nhiệm vụ càng tốt. Nhưng cán bộ thấm nhuần chưa đủ. Phải làm cho tinh thần nghị quyết thấm nhuần trong toàn Đảng, toàn dân, làm cho mọi người thấy hết thắng lợi, khả năng và khó khăn của ta, thấy rõ khả năng của ta to lớn hơn khó khăn nhiều, làm sao cho mọi người vui vẻ, hăng hái làm tròn nhiệm vụ, vì khi nhân dân vui vẻ, hăng hái thì mọi khó khăn sẽ vượt được". Nhận thức tầm quan trọng đó, thời gian qua việc học tập, nghiên cứu nghị quyết của Đảng tiếp tục được cấp ủy các cấp quan tâm, có nhiều đổi mới, góp phần làm nên những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Thực hiện chương trình làm việc toàn khoá của ban chấp hành trung ương khóa XII, từ đầu nhiệm kỳ đến nay, Ban chấp hành trung ương, Bộ chính trị khóa XII đã triển khai các nhiệm vụ chiến lược, toàn diện trên tất cả các lĩnh vực, nhất là nội dung về xây dựng đảng, về kinh tế, về xã hội, về quốc phòng, an ninh và đối ngoại.

Nhằm giúp các ngành, các cấp, các địa phương, các tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên và nhân dân nắm vững, quán triệt và triển khai thực hiện các nghị quyết của Ban chấp hành trung ương, Bộ chính trị khóa XII có hiệu quả, Ban tuyên giáo trung ương đảng phối hợp với Nhà xuất bản chính trị quốc gia sự thật xuất bản cuốn sách "Những nội dung cơ bản và mới trong các nghị quyết của ban chấp hành trung ương đảng, bộ chính trị khóa XII".

4. Đánh giá bạn đọc

Quyển sách được biên soạn ngắn gọn, nêu rõ những nội dung cơ bản phải điểm mới trong các nghị quyết của ban chấp hành trung ương, bộ chính trị khóa XII. Đây là tài liệu hữu ích, thì các cấp, các ngành học tập, quán triệt, nắm vững và triển khai thực hiện các nghị quyết ban chấp hành trung ương, bộ chính trị khóa 12 có hiệu quả.

5. Kết luận

Hy vọng những chia sẻ trên đây của chúng tôi sẽ là một nguồn tư liệu đánh giá chất lượng sách hiệu quả tin cậy của bạn đọc. Nếu thấy chia sẻ của chúng tôi hữu ích, bạn hãy lan tỏa nó đến với nhiều người hơn nhé! Chúc các bạn đọc sách hiệu quả và thu được nhiều thông tin hữu ích từ cuốn sách “Những nội dung cơ bản và mới trong các nghị quyết của ban chấp hành trung ương đảng, bộ chính trị khóa XII".

Luật Minh Khuê trích dẫn dưới đây một số điểm mới của Nghị quyết số 12-NQ/TW ngày 3/6/2017, Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khóa XII về “Tiếp tục đổi mới, cơ cấu lại và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước” để bạn đọc tham khảo:

Về khái niệm doanh nghiệp Nhà nước

Nghị quyết số 12-NQ/TW (khóa XII) đã xác định nội hàm rõ doanh nghiệp nhà nước để thống nhất cách hiểu “Doanh nghiệp nhà nước là doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ hoặc giữ cổ phần, vốn góp chi phối, tổ chức và hoạt động dưới hình thức công ty cổ phần hoặc công ty trách nhiệm hữu hạn”. Vậy phạm vi bao quát không chỉ ở một số ít doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ mà còn bao gồm một số lượng rất lớn doanh nghiệp do nhà nước nắm giữ cổ phần, vốn góp chi phối, phù hợp với thực tiễn trong nước và thông lệ quốc tế. Khái niệm này kế thừa Nghị quyết Trung ương 3 (khóa IX), nhưng có bổ sung hơn so với Luật Doanh nghiệp 2014 (Doanh nghiệp nhà nước là doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ). Hiện nay, vốn và tài sản nhà nước tại các doanh nghiệp có cổ phần, vốn góp chi phối của Nhà nước rất lớn và Nhà nước có vai trò quan trọng trong định hướng phát triển các doanh nghiệp này, vì vậy rất cần sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước đối với các doanh nghiệp có cổ phần, vốn góp chi phối của Nhà nước.

Về vị trí và vai trò của doanh nghiệp nhà nước

- Trong Nghị quyết Trung ương 3 (khóa IX) xác định: “doanh nghiệp nhà nước là lực lượng nòng cốt đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế và tạo nền tảng cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa”; “doanh nghiệp nhà nước giữ vị trí then chốt trong nền kinh tế, làm công cụ vật chất quan trọng để Nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô, làm lực lượng nòng cốt, góp phần chủ yếu để kinh tế nhà nước thực hiện vai trò chủ đạo trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, là chủ lực trong hội nhập kinh tế quốc tế”.

- Nghị quyết số 12-NQ/TW (khóa XII) nêu bật hơn vai trò của Doanh nghiệp Nhà nước theo tinh thần cụ thể hóa quan điểm của Đại hội XII: Doanh nghiệp nhà nước giữ vị trí then chốt và là một lực lượng vật chất quan trọng của kinh tế nhà nước, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế và thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội; doanh nghiệp nhà nước thực hiện vai trò dẫn dắt phát triển các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế khác, bảo đảm doanh nghiệp Việt Nam thật sự trở thành lực lượng nòng cốt trong phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế.

Về phạm vi ngành, lĩnh vực hoạt động

Nghị quyết số 12-NQ/TW (khóa XII) đề ra chủ trương tiếp tục thu hẹp phạm vi ngành, lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp nhà nước, cụ thể là: Doanh nghiệp nhà nước tập trung vào những lĩnh vực then chốt, thiết yếu; những địa bàn quan trọng và quốc phòng, an ninh; những lĩnh vực mà doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác không đầu tư.

Trong khi đó, Nghị quyết Trung ương 3 (khóa IX) xác định: “Kiên quyết điều chỉnh cơ cấu để doanh nghiệp nhà nước có cơ cấu hợp lý, tập trung vào những ngành, lĩnh vực then chốt và địa bàn quan trọng, chiếm thị phần đủ lớn đối với các sản phẩm và dịch vụ chủ yếu; không nhất thiết phải giữ tỉ trọng lớn trong tất cả các ngành, lĩnh vực, sản phẩm của nền kinh tế”.

Như vậy, phạm vi ngành, lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp nhà nước đã được xác định rõ hơn so với Nghị quyết Trung ương 3 (khóa IX) và phù hợp hơn với vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Về cơ chế hoạt động, tiêu chí đánh giá hiệu quả doanh nghiệp nhà nước

- Nghị quyết số 12-NQ/TW (khóa XII) xác định quan điểm: Doanh nghiệp nhà nước hoạt động theo cơ chế thị trường, lấy hiệu quả kinh tế làm tiêu chí đánh giá chủ yếu, tự chủ, tự chịu trách nhiệm, cạnh tranh bình đẳng với doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác theo quy định của pháp luật. Bảo đảm công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình của doanh nghiệp nhà nước. Tách bạch nhiệm vụ của doanh nghiệp nhà nước sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ thông thường và nhiệm vụ của doanh nghiệp nhà nước sản xuất, cung cấp hàng hoá, dịch vụ công ích.

Quan điểm này cụ thể hóa chủ trương của Đảng trong Đại hội XII “Mọi doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế đều phải hoạt động theo cơ chế thị trường, bình đẳng cạnh tranh theo pháp luật”; “Tách bạch nhiệm vụ sản xuất kinh doanh và nhiệm vụ chính trị, công ích”.

- Nghị quyết số 12-NQ/TW (khóa XII) đề xuất giải pháp đổi mới cơ chế, chính sách để doanh nghiệp nhà nước thật sự vận hành theo cơ chế thị trường:

+ Doanh nghiệp nhà nước tham gia thực hiện nhiệm vụ chính trị, xã hội do Nhà nước giao thực hiện theo cơ chế Nhà nước đặt hàng, lựa chọn cạnh tranh, công khai và xác định rõ giá thành, chi phí thực hiện, trách nhiệm và quyền lợi của Nhà nước, doanh nghiệp nhà nước để bảo đảm không làm giảm hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước.

+ Quan hệ kinh tế, tài chính giữa Nhà nước và doanh nghiệp nhà nước, nhất là các quyền và nghĩa vụ phải được thực hiện đầy đủ, minh bạch theo quy định của pháp luật, phù hợp với cơ chế thị trường.

+ Xoá bỏ các cơ chế can thiệp hành chính trực tiếp, bao cấp dành cho doanh nghiệp nhà nước, đối xử bất bình đẳng với doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác, nhất là trong tiếp cận các nguồn lực nhà nước, tín dụng, đất đai, tài nguyên, cơ hội đầu tư, kinh doanh, tài chính, thuế,...

+ Phát huy vai trò mở đường, dẫn dắt của doanh nghiệp nhà nước trong việc hình thành và mở rộng các chuỗi sản xuất, cung ứng và chuỗi giá trị trong nước, khu vực và thế giới. Hạn chế tình trạng sản xuất kinh doanh khép kín, cục bộ, không minh bạch trong doanh nghiệp nhà nước, đặc biệt là trong các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước.

Nhìn chung, đổi mới cơ chế, chính sách hoạt động của doanh nghiệp nhà nước theo Nghị quyết này là hướng tới bảo đảm đối xử bình đẳng giữa doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác, bảo đảm quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của doanh nghiệp nhà nước, quan hệ giữa nhà nước và doanh nghiệp nhà nước “sòng phẳng” và rõ ràng hơn theo cơ chế thị trường nhằm bảo đảm hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước.

Về định hướng cơ cấu lại

- Nghị quyết số 12-NQ/TW (khóa XII) xác định quan điểm: Cơ cấu lại, đổi mới doanh nghiệp nhà nước theo cơ chế thị trường là quá trình thường xuyên, liên tục với phương thức thực hiện và lộ trình hợp lý. Tiếp tục đẩy mạnh cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước theo hướng kiên quyết cổ phần hoá, bán vốn tại những doanh nghiệp mà Nhà nước không cần nắm hoặc không cần giữ cổ phần, vốn góp chi phối, kể cả những doanh nghiệp đang kinh doanh có hiệu quả; đồng thời xử lý triệt để, bao gồm cả việc cho phá sản các doanh nghiệp nhà nước yếu kém.

Quan điểm này thể hiện việc cơ cấu lại, đổi mới doanh nghiệp nhà nước là một quá trình thường xuyên, liên tục không chỉ nhằm xử lý những hạn chế, yếu kém hiện nay mà còn để doanh nghiệp nhà nước đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện được vị trí, vai trò của doanh nghiệp nhà nước đã nêu và tiếp tục thu hẹp số lượng doanh nghiệp nhà nước để tập trung vào 3 ngành, lĩnh vực đã được Đại hội XII của Đảng xác định. Quan điểm này cho thấy sự quyết tâm cao của Đảng trong việc đổi mới, cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước, nhất là cổ phần hóa và thoái vốn nhà nước.