Mục lục bài viết
- 1. Tội xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín của người khác
- 2. Dấu hiệu cơ bản của tội xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín
- 3. Xử phạt vi phạm hành chính khi không đủ yếu tố cấu thành tội phạm
- 4. Phân tích dấu hiệu thuộc mặt khách thể của tội phạm
- 5. Phân tích dấu hiệu thuộc mặt khách quan của tội phạm
- Hành vi khách quan
- Hậu quả của tội phạm
Khách hàng: Chào luật sư, xin luật sư vui lòng tư vấn dùm tôi trường hợp như sau: Tôi có quen 1 người có con và đã li dị chồng, sau 2 năm sống chung không hôn thú tôi nhân thấy giữa 2 bên có nhiều điểm không tương đồng và quyết định chia tay. Sau đó người này liên tục gọi điện thoại cố định quấy rối ba mẹ tôi, và cả số điện thoại di động của bạn bè và đồng nghiệp. Tôi thấy rất là áp lực về tinh thần, mặc dù đã nhiều lần gặp mặt và giải quyết vấn đề nhưng vẫn không cải thiện được tình hình. Gần đây nhất cô ấy có lấy điện thoại của tôi và liên tục hăm doạ và làm phiền các đối tác trên danh bạ. Vậy tôi có thể kiện và bắt buộc cô ấy trả lại điện thoại với lí do xâm phạm đời tư cá nhân, chiếm đoạt tài sản và quấy rối tinh thần được hay không hoặc có cách giải quyết nào khác hay không?
Chân thành cảm ơn!
Câu hỏi được biên tập từ chuyên mục tư vấn pháp luật hình sự của công ty Luật Minh Khuê.
Trả lời:Chào bạn, cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi những thắc mắc của bạn đến công ty Luật Minh Khuê. Với những thông tin mà bạn cung cấp chúng tôi xin tư vấn cho bạn như sau:
Cơ sở pháp lý đước sử dụng trong bài viết
Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Nội dung phân tích
1. Tội xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín của người khác
Điều 159 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 có có quy định về tội xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín của người khác như sau:
"Điều 159. Tội xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín hoặc hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác của người khác
1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây, đã bị xử lý kỷ luật hoặc xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt cảnh cáo, phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm:
a) Chiếm đoạt thư tín, điện báo, telex, fax hoặc văn bản khác của người khác được truyền đưa bằng mạng bưu chính, viễn thông dưới bất kỳ hình thức nào;
b) Cố ý làm hư hỏng, thất lạc hoặc cố ý lấy các thông tin, nội dung của thư tín, điện báo, telex, fax hoặc văn bản khác của người khác được truyền đưa bằng mạng bưu chính, viễn thông;
c) Nghe, ghi âm cuộc đàm thoại trái pháp luật;
d) Khám xét, thu giữ thư tín, điện tín trái pháp luật;
đ) Hành vi khác xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín, telex, fax hoặc hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác của người khác.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 03 năm:
a) Có tổ chức;
b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;
c) Phạm tội 02 lần trở lên;
d) Tiết lộ các thông tin đã chiếm đoạt, làm ảnh hưởng đến danh dự, uy tín, nhân phẩm của người khác;
đ) Làm nạn nhân tự sát.
3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm."
2. Dấu hiệu cơ bản của tội xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín
Các dấu hiệu cơ bản của tội này được thể hiện qua 4 yếu tố sau:
- Về khách thể: Tội phạm này xâm phạm vào quyền được đảm bảo bí mật, an toàn thư tín, điện thoại, điện tín, telex,fax hoặc các văn bản truyền bằng phương tiễn viễn thông hoặc máy tính.
- Về mặt khách quan: hành vi trái pháp luật xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín…Bao gồm mọi hành vi nhằm mục đích biết được nội dung giữ kín của thư, điện báo…Các hành vi được thực hiện cụ thể như sau:
+ Hành vi chiếm đoạt thư tín, điện thoại, điện tín, telex, fax hoặc các văn bản truyền bằng phương tiễn viễn thông hoặc máy tính bằng các thủ đoạn khác nhau: lén lút bí mật, lừa dối, dùng vũ lực, đe dọa… dể lấy thư tín, điện tín của nguười khác.
+ Các hành vi khác xâm phạm bí mật an toàn thư tín, điện thoại, điện tín của người khác: Tự tiện bóc thư, nghe trộm điện thoại…
- Mặt chủ quan: Lỗi cố ý trực tiếp hoặc cố ý gián tiếp
- Về Chủ thể: Tội phạm này được thực hiện bởi bất kỳ người nào có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi do luật hình sự định.
Theo thông tin bạn cung cấp cho chúng tôi, người phụ nữ chung sống như vợ chồng với bạn đã có những hành vi như gọi điện thoại cố định quấy rối ba mẹ bạn và cả số điện thoại di động của bạn bè và đồng nghiệp của bạn. Ngoài ra, gần đây nhất người đó còn lấy điện thoại của bạn và liên tục hăm doạ và làm phiền các đối tác trên danh bạ trong điện thoại của bạn. Tuy nhiên do bạn không nêu rõ về hành vi lấy điện thoại của người phụ nữ đó có được sự đồng ý cho phép của bạn hay không nên chúng tôi xin tư vấn cho bạn trong trường hợp người đó lấy điện thoại của bạn sử dụng mà không được sự đồng ý của bạn thì hành vi tự động lấy điện thoại của bạn để hăm dọa làm phiền các đối tác của bạn đã xâm phạm đến bí mật về điện thoại của bạn. Với những hành vi trên của người phụ nữ đó, bạn có thể trực tiếp đến cơ quan công an trình báo hoặc làm đơn tố giác tội phạm về hành vi xâm phạm bí mật về điện thoại của bạn.
3. Xử phạt vi phạm hành chính khi không đủ yếu tố cấu thành tội phạm
Nếu không đủ yếu tố cấu thành tội phạm thì hành vi trên bị xử phạt vi phạm hành chính theo khoản điểm g khoản 3 Điều 66 Nghị định 174/2013/NĐ-CP:
"Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau đây:
g) Cung cấp, trao đổi, truyền đưa hoặc lưu trữ, sử dụng thông tin số nhằm đe dọa, quấy rối, xuyên tạc, vu khống, xúc phạm uy tín của tổ chức, danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác;"
4. Phân tích dấu hiệu thuộc mặt khách thể của tội phạm
Khách thể của tội phạm xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín của người khác là quyền an toàn và bí mật về thư tín, điện thoại, điện tín của người công dân. Quyền này được ghi nhận tại Điều 73 Hiến pháp năm 1992: “Thư tín, điện thoại, điện tín của công dân được đảm bảo an toàn và bí mật… việc bóc mở, kiểm soát, thu giữ thư tín, điện tín của công dân phải do người có thẩm quyền tiến hành theo quy định của pháp luật”.
Quyền an toàn và bí mật thư tín, điện thoại, điện tín của công dân còn được cụ thể hóa bởi những quy định của Bộ Luật tố tụng hình sự tại Điều 8 (Đảm bảo quyền bất khả xâm phạm về an toàn và bí mật thư tín, điện thoại, điện tín của công dân); Điều 140 (Căn cứ khám thư tín); Điều 144 (thu giữ thư tín điện tín); Điều 147 (Trách nhiệm bảo quản thư tín, điện tín bị thu giữ, tạm giữ hoặc bị niêm phong); Điều 148 (Biên bản khám xét của người ra lệnh và thi hành lệnh khám xét, thu giữ, tạm giữ thư tín, điện tín).
Đối tượng tác động của tội phạm này là thư, điện báo, telex, fax, các văn bản khác được truyền đưa bằng phương tiện viễn thông và máy tính.
Thư, điện báo, telex, fax hoặc văn bản khác được truyền đưa bằng phương tiện viễn thông và máy tính là thư, điện báo, telex, fax hoặc văn bản khác được truyền đưa bằng phương tiện viễn thông và máy tính của Nhà nước hoặc tổ chức thì người phạm tội không bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội phạm này mà tùy trường hợp cụ thể người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về các tội tương ứng. Ví dụ: hành vi chiếm đoạt một công văn mật của cơ quan nhà nước là hành vi phạm tội chiếm đoạt tài liệu bí mật nhà nước quy định tại Điều 263, nếu là tài liệu khác (không phải là tài liệu mật) là phạm tội chiếm đoạt tài liệu của cơ quan nhà nước quy định tại Điều 268 Bộ luật hình sự. Văn bản khác, ngoài thư, điện báo, telex, fax được truyền đưa bằng phương tiện viên thông và máy tính, không phải là văn bản bất kỳ mà chỉ gồm các văn bản có nội dung, tính chất của thư tín, điện tín của người khác. Người nước ngoài công tác và sinh sống ở Việt Nam nếu tuân theo Hiến pháp và pháp luật Việt Nam mà bị xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín cũng được bảo hộ như công dân Việt Nam.
5. Phân tích dấu hiệu thuộc mặt khách quan của tội phạm
Hành vi khách quan
Người phạm tội có thể thực hiện hành vi chiếm đoạt thư, điện báo, telex, fax được truyền đưa bằng phương tiện viên thông và máy tính, hoặc có hành vi trái pháp luật xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín.
Chiếm đoạt thư, điện báo, telex, fax hoặc các văn bản khác được truyền đưa bằng phương tiện viên thông và máy tính là làm cho thư, điện báo, telex, fax hoặc các văn bản khác được truyền đưa bằng phương tiện viên thông và máy tính không đến được với người nhận bằng nhiều thủ đoạn khác nhau như: dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực, lén lút, gian dối, bội tín, công nhiên… Cũng giống như hành vi chiếm đoạt tài sản trong các tội xâm phạm sở hữu là lấy đi, nhưng tính chất chiếm đoạt ở đây khác chiếm đoạt tài sản ở chỗ, người phạm tội có thể lấy thư, điện báo, telex, fax hoặc các văn bản khác được truyền đưa bằng phương tiện viễn thông và máy tính là làm cho thư cho mình, nhưng cũng có thể chỉ lấy rồi vứt đi, mà không chiếm hữu, sử dụng.
Nếu chiếm đoạt thư, điện báo, telex, fax hoặc các văn bản khác được truyền đưa bằng phương tiện viễn thông và máy tính để dùng vào mục đích khác và hành vi dùng vào mục đích của người phạm tội lại cấu thành một tội phạm độc lập thì tùy trường hợp cụ thể mà người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội phạm tương tứng nếu hành vi chiếm đoạt chỉ là phương tiện để thực hiện mục đích.
Với các văn bản mà người phạm tội chiếm đoạt không phải là văn bản được truyền đưa bằng phương tiện viễn thông và máy tính và không có nội dung, tính chất thư tín, điện tín thì không phải là hành vi phạm tội xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín của người khác. Tùy trường hợp cụ thể, người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về các tội phạm tương ứng.
Hành vi trái pháp luật xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín của người khác không phải là hành vi chiếm đoạt thư, điện báo, telex, fax hoặc các văn bản khác được truyền đưa bằng phương tiện viễn thông và máy tính. Hành vi này rất đa dạng, được biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau như: nghe trộm điện thoại; bóc và đọc trộm thư; tiêu hủy thư, điện báo, telex, fax hoặc các văn bản khác được truyền đưa bằng phương tiện viễn thông và máy tính của người khác v.v.. Đối với hành vi này, khi xác định có phải là hành vi phạm tội xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín hay không, cần phải đối chiếu với các quy định về bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín của các cơ quan chức năng chuyên nghành như bưu điện, viễn thông…
Tuy không phải hành vi, nhưng lại là dấu hiệu bắt buộc thuộc mặt khách quan của tội phạm này, đó là đã bị xử lý kỷ luật hoặc xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt thư, điện báo, telex, fax hoặc các văn bản khác được truyền đưa bằng phương tiện viễn thông và máy tính, hoặc óc hành vi trái pháp luật xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện tín, điện thoại mà còn vi phạm.
Đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm là trước đó đã có lần xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín của người khác, đã bị xử lý bằng một trong những hình thức kỷ luật theo quy định của Nhà nước hoặc theo quy định trong Điều lệ của tổ chức và chưa hết thời hạn được xóa kỷ luật, nay lại có hành vi xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín của người khác. Nếu trước đó người phạm tội có bị xử lý kỷ luật, nhưng về hành vi khác không phải là hành vi nói trên thì cũng không cấu thành tội phạm này. Đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm là trước đó đã có lần xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín của người khác, đã bị xử phạt hành chính bằng một trong những hình thức xử lý hành chính khác theo quy định của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính và chưa hết thời hạn được coi là chưa bị xử lý hành chính, nay lại có hành vi xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín của người khác. Nếu trước đó người phạm tội truy có bị xử lý hành chính, nhưng về hành vi khác không phải là hành vi xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín của người khác thì cũng không cấu thành tội phạm này.
Hậu quả của tội phạm
Hậu quả của tội xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín của người khác là gây ra những thiệt hại về vật chất và tinh thần cho con người hoặc gây ra những thiệt hại về an ninh, trật tự, an toàn xã hội. Những thiệt hại này có thể tính ra được bằng tiền, nhưng cũng có thể không tính ra được bằng tiền.
Hậu quả của hành vi xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín của người khác, trước hết là làm cho thư tín, điện thoại, điện tín không còn giữ được bí mật hoặc không đến được người nhận và do không giữ được bí mật hay không đến được với người nhận nên có thể gây ra hậu quả khác về vật chất hay tinh thần cho người khác. Ví dụ: A ký hợp đồng vận chuyển hàng cho B, nhưng vì lý do khách quan nên B phải thay đổi thời gian nhận hàng; B gửi điện báo cho A để A đừng chở hàng đến nữa, nhưng bức điện mà B gửi cho A lại lọt vào tay C. Vì sãn có thù tức với B nên C đã chiếm đoạt bức điện đó. Do không nhận được điện của B nên A vẫn chở hàng cho B đúng hẹn, gây thiệt hại cho B hàng trăm triệu đồng.
Trên đây là ý kiến tư vấn của chúng tôi về câu hỏi của quý khách hàng. Việc đưa ra ý kiến tư vấn nêu trên căn cứ vào các quy định của pháp luật và thông tin do quý khách hàng cung cấp. Mục đích đưa ra nội dung tư vấn này là để các cá nhân, tổ chức tham khảo.Trường hợp trong nội dung tư vấn có điều gì gây nhầm lẫn, chưa rõ ràng hoặc thông tin nêu trong nội dung tư vấn khiến quý khách chưa hiểu hết vấn đề hoặc/ và có sự vướng ngại, thắc mắc, chúng tôi rất mong nhận được ý kiến phản hồi của quý khách hàng.Mọi vướng mắc bạn vui lòng trao đổi trực tiếp với bộ phận luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài 24/7 gọi số: 1900.6162 hoặc gửi qua email: Tư vấn pháp luật hình sự miễn phí qua Email để nhận được sự tư vấn, hỗ trợ từ Luật Minh Khuê.
Rất mong nhận được sự hợp tác!
Trân trọng./.
Bộ phận Tư vấn pháp luật hình sự.