1. Sự tham gia tố tụng của gia đình, nhà trường và tổ chức

Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 bổ sung các quyền của người đại diện của người bị buộc tội, của nhà trường, tổ chức khi tham gia tố tụng
Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, việc tham gia của người đại diện, thầy, cô giáo, đại diện nhà trường, Đoàn thanh niên và tổ chức khác nơi người dưới 18 tuổi học tập, lao động, sinh hoạt có ý nghĩa quan trọng, bảo đảm sự hỗ trợ cần thiết cho người dưới 18 tuổi và giúp cho các cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết vụ án được chính xác,  khách quan. Tại Điều 420 BLTTHS 2015 đã quy định quyền khi tham gia tố tụng của người đại diện, nhà trường, tổ chức của người dưới 18 tuổi. Cụ thể như sau:
- Người đại diện của người dưới 18 tuổi được tham gia việc lấy lời khai, hỏi cung người dưới 18 tuổi; đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu, khiếu nại, tố cáo; đọc, ghi chép, sao chụp tài liệu liên quan đến việc buộc tội người dưới 18 tuổi trong hồ sơ vụ án sau khi kết thúc điều tra (Khoản 1, Khoản 2 Điều 420 BLTTHS 2015).
- Người đại diện của người dưới 18 tuổi, thầy giáo, cô giáo, đại diện nhà trường, Đoàn thanh niên, tổ chức khác nơi người dưới 18 tuổi học tập, lao động và sinh hoạt khi tham gia phiên tòa có quyền đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu và đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng; phát biểu ý kiến tranh luận; khiếu nại các hành vi tố tụng (Khoản 3 Điều 420 BLTTHS 2015). Các quy định này được hướng dẫn cụ thể tại Điều 9 TTLT số 06/2018/TTLT- VKSNDTC-TANDTC-BCA-BTP-BLĐTBXH quy định về việc bảo đảm việc tham gia tố tụng của người đại diện, nhà trường, Đoàn thanh niên, cơ quan tổ chức khác.
 

2. Hỏi cung bị can là người dưới 18 tuổi trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự

Hỏi cung bị can là hoạt động điều tra theo tố tụng, do Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định. Hỏi cung bị can có ý nghĩa lớn trong việc điều tra, xác định sự thật khách quan của vụ án.
Trình tự, thủ tục hỏi cung bị can được quy định tại Điều 183, 184 BLTTHS năm 2015. Ngoài các quy định này, BLTTHS năm 2015 còn quy định cụ thể trình tự, thủ tục hỏi cung bị can là người dưới 18 tuổi tại Điều 421 như sau:
 

2.1 Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải thông báo trước thời gian, địa điểm hỏi cung cho NBC, NĐD của họ 

Khi hỏi cung bị can là người dưới 18 tuổi, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải thông báo trước thời gian, địa điểm hỏi cung cho người bào chữa, người đại diện của họ (Khoản 1 Điều 421 BLTTHS 2015). Theo khoản 1 Điều 14 Thông tư liên tịch số 06/2018 hướng dẫn thực hiện thì việc hỏi cung bị can dưới 18 tuổi có thể thực hiện tại nơi học tập, lao động và sinh hoạt của người đó hoặc nơi tiến hành điều tra. Trường hợp hỏi cung tại nơi tiến hành điều tra thì phải được sắp xếp, bố trí phòng hỏi cung bảo đảm thân thiện, phù hợp với tâm lý người dưới 18 tuổi.
 

2.2 Việc hỏi cung bị can là người dưới 18 tuổi phải có mặt người bào chữa hoặc người đại diện của họ 

Việc hỏi cung bị can là người dưới 18 tuổi phải có mặt người bào chữa hoặc người đại diện của họ (Khoản 2 Điều 421 BLTTHS 2015).Theo Khoản 4 Điều 10 Thông tư liên tịch số 06/2018/TTLT-VKSTC- TANDTC-BCA-BTP-BLĐTBXH hướng dẫn như sau: Ngoài sự tham gia của người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có thể đề nghị Cơ quan Lao động – Thương binh và Xã hội, Hội liên hiệp Phụ nữ, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Bảo vệ quyền trẻ em, Trung tâm trợ giúp pháp lý, cơ quan, tổ chức khác nơi tiến hành tố tụng cử người tham gia tố tụng để hổ trợ, bảo vệ cho người bị buộc tội…
 

2.3 Người bào chữa, người đại diện có thể hỏi bị can là người dưới 18 tuổi nếu được Điều tra viên, KSV đồng ý

Người bào chữa, người đại diện có thể hỏi bị can là người dưới 18 tuổi nếu được Điều tra viên, Kiểm sát viên đồng ý. Sau mỗi lần hỏi cung của người có thẩm quyền kết thúc thì người bào chữa, người đại diện có thể hỏi bị can (Khoản 3 Điều 421 BLTTHS 2015). Liên quan đến vấn đề này, Khoản 4 Điều 14 Thông tư liên tịch số 06/2018/TTLT-VKSTC-TANDTC-BCA-BTP-BLĐTBXH: Người đại diện, người bào chữa của người dưới 18 tuổi được tham gia hỏi người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can là người dưới 18 tuổi. Điều tra viên, Kiểm sát viên yêu cầu không được hỏi và phải dừng ngay việc hỏi trong trường hợp câu hỏi của người đại diện, người bào chữa có dấu hiệu thông cung, mớm cung phải lập tức yêu cầu họ dừng ngay việc hỏi và lập biên bản, báo cáo người có thẩm quyền xử lý theo quy định của Pháp luật.
- Thời gian hỏi cung bị can là người dưới 18 tuổi không quá hai lần trong 01 ngày và mỗi lần không quá 02 giờ (Khoản 5 Điều 421 BLTTHS 2015) trừ trường hợp: Phạm tội có tổ chức (Điểm a Khoản 5 Điều 421): Theo Khoản 2 Điều  17 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) thì phạm tội có tổ chức là hình thức đồng phạm có sự câu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm. Để truy bắt người phạm tội khác đang bỏ trốn (Điểm b Khoản 5 Điều 421). Ngăn chặn người khác phạm tội (Điểm c Khoản 5 Điều 421). Để truy tìm công cụ, phương tiện phạm tội hoặc vật chứng khác của vụ án (Điểm d Khoản 5 Điều 421). Vụ án có nhiều tình tiết phức tạp (Điểm đ Khoản 5 Điều 421). Hiện nay, chưa có quy định cụ thể thế nào là vụ án có nhiều tình tiết phức tạp. Tuy nhiên, các nhà làm luật đã coi tính chất phức tạp của vụ án là vụ án có nhiều bị can hay bị can phạm nhiều tội [30].
Liên quan đến thời gian hỏi cung bị can là người dưới 18 tuổi, Khoản 3 Điều 14 Thông tư liên tịch số 06/2018/TTLT-VKSTC-TANDTC-BCA-BTP- BLĐTBXH hướng dẫn một số nội dung như sau: Khi tiến hành lấy lời khai, hỏi cung người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải có thái độ thân thiện, nhẹ nhàng, sử dụng ngôn ngữ dễ hiểu, phù hợp với độ tuổi, giới tính, khả năng nhận thức của họ. Xem xét áp dụng các biện pháp phù hợp nhằm giảm đến mức thấp nhất thời gian, số lượng lấy lời khai, hỏi cung và tạm dừng ngay việc lấy lời khai, hỏi cung khi người dưới 18 tuổi có biểu hiện mệt mỏi, ảnh hưởng đến khả năng khai báo chính xác, đầy đủ.
 

3. Bào chữa cho bị can là người dưới 18 tuổi trong giai đoạn điều tra

Bào chữa là một trong những quyền cơ bản của người bị buộc tội nhằm bác bỏ một phần hay toàn bộ sự buộc tội, làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự hoặc làm sáng tỏ tình tiết về sự vô tội của mình. BLTTHS năm 2015 quy định về bào chữa tại Chương V, từ Điều 72 đến Điều 82. Ngoài các quy định này, bào chữa cho người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi còn được BLTTHS năm 2015 quy định thêm tại Điều 422. Theo quy định tại Điều 422 BLTTHS năm 2015, bào chữa cho bị can là người dưới 18 tuổi trong giai đoạn điều tra có thêm những vấn đề như sau:
- Bị can là người dưới 18 tuổi có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa (Khoản 1 Điều 422 BLTTHS 2015):
Tự bào chữa là hình thức bị can, bị cáo tự sử dụng các quyền mà pháp luật cho phép để chứng minh sự vô tội, giảm nhẹ tội hoặc bảo vệ những lợi ích hợp pháp của mình, mà không phải có sự tham gia của người bào chữa.
Nhờ người khác bào chữa là trường hợp bị can nhờ sự giúp đỡ pháp lý của những người khác theo quy định của pháp luật nhằm hỗ trợ bị can thực hiện quyền bào chữa cho mình, khi họ không đủ khả năng tự mình thực hiện hoặc trong những trường hợp pháp luật quy định bắt buộc phải có người bào chữa nhằm đảm bảo tính khách quan và tính hợp pháp của các hoạt động TTHS. Theo quy định tại Khoản 2 Điều 72 BLTTHS năm 2015, người bào chữa cho bị can là người dưới 18 tuổi có thể là: Luật sư, người đại diện của bị can, bào chữa viên nhân dân, trợ giúp viên pháp lý; trừ những người không được bào chữa theo quy định tại Khoản 4, khoản 5 Điều 72 BLTTHS năm 2015. Bị can có thể nhờ nhiều người bào chữa khác nhau để bào chữa (Khoản 5 Điều 72 BLTTHS 2015).
Quyền tự bào chữa và quyền nhờ người khác bào chữa là hai nội dung của quyền bào chữa, có mối quan hệ hỗ trợ lẫn nhau. Điều này có nghĩa là khi bị can nhờ người khác bào chữa cho mình thì họ vẫn có quyền tự bào chữa và ngược lại.
- Người đại diện của bị can dưới 18 tuổi có quyền lựa chọn người bào chữa hoặc tự mình bào chữa cho bị can (Khoản 2 Điều 422 BLTTHS 2015): tương tự như việc tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa của bị can nhưng do người đại diện của bị can thực hiện.
- Trường hợp bị can là người dưới 18 tuổi không có người bào chữa hoặc người đại diện của họ không lựa chọn người bào chữa thì Cơ quan điều tra phải chỉ định người bào chữa theo quy định tại Điều 76 của Bộ luật này (Khoản 2 Điều 422 BLTTHS 2015):
Theo quy định này, ngoài việc bị can là người dưới 18 tuổi tự bào chữa thì bắt buộc phải có thêm người bào chữa cho bị can. Nếu bị can không có người bào chữa, người đại diện của bị can không lựa chọn người bào chữa cho bị can thì Cơ quan điều tra phải chỉ định người bào chữa cho bị can.
Trường hợp phải chỉ định người bào chữa cho bị can là người dưới 18 tuổi, theo khoản 2 Điều 76 BLTTHS năm 2015, Cơ quan điều tra phải yêu cầu hoặc đề nghị các tổ chức sau đây cử người bào chữa cho bị can:
+ Đoàn luật sư phân công tổ chức hành nghề luật sư cử người bào chữa.
+ Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước cử Trợ giúp viên pháp lý, luật sư bào chữa cho người thuộc diện được trợ giúp pháp lý.
+ Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận cử bào chữa viên nhân dân bào chữa cho người bị buộc tội là thành viên của tổ chức mình.
Sau khi Cơ quan điều tra chỉ định người bào chữa, bị can và người đại diện hoặc người thân thích của họ vẫn có quyền yêu cầu thay đổi hoặc từ chối người bào chữa theo quy định tại khoản 3 Điều 77 BLTTHS năm 2015:
+ Trường hợp thay đổi người bào chữa thì việc chỉ định người bào chữa khác được thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 76 của BLTTHS năm 2015 đã nêu trên.
+ Trường hợp từ chối người bào chữa thì Cơ quan điều tra lập biên bản về việc từ chối người bào chữa của bị can hoặc người đại diện, người thân thích của bị can và chấm dứt việc chỉ định người bào chữa.
Liên quan đến việc tham gia tố tụng của người bào chữa cho bị can là người dưới 18 tuổi trong giai đoạn điều tra, Điều 10 Thông tư liên tịch số 06/2018/TTLT-VKSTC-TANDTC-BCA-BTP-BLĐTBXH hướng dẫn cụ thể một số nội dung như sau:
Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải thông báo cho người bị buộc tội, người bị hại dưới 18 tuổi, người đại diện hoặc người thân thích của họ về việc mợi người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho họ khi tham gia tố tụng…
Người bào chữa cho người bị buộc tội dưới 18 tuổi phải tham gia các giai đoạn tố tụng của vụ án, trừ trường người bị buộc tội, người đại diện hoặc người thân thích của họ từ chối người bào chữa.
BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) có sự thay đổi về tên gọi từ “người chưa thành niên” thành “người dưới 18 tuổi” và đề cao nguyên tắc bảo vệ lợi ích tốt nhất khi áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Để bảo vệ quyên và lợi ích hợp pháp của người dưới 18 tuổi phạm tội thì tại Điều 91 BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) quy định bảy nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, cụ thể như sau: Việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội phải bảo đảm lợi ích tốt nhất của người dưới 18 tuổi và chủ yếu nhằm mục đích giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh, trở thành công dân có ích cho xã hội. Việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội phải căn cứ vào độ tuổi, khả năng nhận thức của họ về tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nguyên nhân và điều kiện gây ra tội phạm.
Người dưới 18 tuổi phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây và có nhiều tình tiết giảm nhẹ, tự nguyện khắc phục phần lớn hậu quả, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 29 của Bộ luật này, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự và áp dụng các biện pháp quy định tại Mục 2 Chương này: Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội nghiêm trọng, trừ trường hợp quy định tại Điều 134 (tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác); Điều 141 (tội hiếp dâm); Điều 171 (tội cướp giật tài sản); Điều 248 (tội sản xuất trái phép chất ma túy); Điều 249 (tội tàng trữ trái phép chất ma túy); Điều 250 (tội vận chuyển trái phép chất ma túy); Điều 251 (tội mua bán trái phép chất ma túy); Điều 252 (tội chiếm đoạt chất ma túy) của Bộ luật này; Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý quy định tại khoản 2 Điều 12 của Bộ luật này, trừ trường hợp quy định tại Điều 123 (tội giết người); Điều 134, các khoản 4, 5 và khoản 6 (tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác); Điều 141 (tội hiếp dâm), Điều 142 (tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi); Điều 144 (tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi); Điều 150 (tội mua bán người); Điều 151 (tội mua bán người dưới 16 tuổi); Điều 168 (tội cướp tài sản); Điều 171 (tội cướp giật tài sản); Điều 248 (tội sản xuất trái phép chất ma túy); Điều 249 (tội tàng trữ trái phép chất ma túy); Điều 250 (tội vận chuyển trái phép chất ma túy); Điều 251 (tội mua bán trái phép chất ma túy); Điều 252 (tội chiếm đoạt chất ma túy) của Bộ luật này; Người dưới 18 tuổi là người đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể trong vụ án. Việc truy cứu trách nhiệm hình sự người dưới 18 tuổi phạm tội chỉ trong trường hợp cần thiết và phải căn cứ vào những đặc điểm về nhân thân của họ, tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và yêu cầu của việc phòng ngừa tội phạm.Khi xét xử, Tòa án chỉ áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội nếu xét thấy việc miễn trách nhiệm hình sự và áp dụng một trong các biện pháp quy định tại Mục 2 hoặc việc áp dụng biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng quy định tại Mục 3 Chương này không bảo đảm hiệu quả giáo dục, phòng ngừa.Không xử phạt tù chung thân hoặc tử hình đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Tòa án chỉ áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội khi xét thấy các hình phạt và biện pháp giáo dục khác không có tác dụng răn đe, phòng ngừa. Khi xử phạt tù có thời hạn, Tòa án cho người dưới 18 tuổi phạm tội được hưởng mức án nhẹ hơn mức án áp dụng đối với người đủ 18 tuổi trở lên phạm tội tương ứng và với thời hạn thích hợp ngắn nhất.Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Án đã tuyên đối với người chưa đủ 16 tuổi phạm tội, thì không tính để xác định tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm.
Có thể thấy, nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội theo Bộ Luật hình sự 2015 sửa đổi 2017, bộ luật tố tụng hình sự 2015 có nhiều điểm mới tiến bộ, thể hiện rõ nét nguyên tắc bảo đảm lợi ích tốt nhất cho người chưa thành niên. Điều này là phù hợp với chủ trương của Đảng và Nhà nước, việc xử lý người chưa thành niên phạm tội chủ yếu nhằm giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh và trở thành công dân có ích cho xã hội.