1. Tâm lý xã hội là gì?

Con người luôn sống trong một môi trường xã hội nhất định: gia đình, trường  học, công ti, xí nghiệp, … Trong quá trình đó các cá nhân có sự tác động qua lại lẫn nhau. Sự tác động này đã điều chỉnh thái độ, hành vi của cá nhân và nhóm dẫn đến quá trình xã hội hoá cá nhân, hình thành nên những hiện tượng tâm lý đặc trưng của nhóm.

Tâm lý xã hội bao gồm những hiện tượng tâm lý chung của một nhóm xã hội nảy sinh từ tác động qua lại trong hoạt động và giao tiếp giữa các thành viên trong nhóm, chi phối thái độ hành vi của các cá nhân khi hiện diện trong nhóm.

Những hiện tượng tâm lý xã hội có mối liên hệ mật thiết với nhau, chi phối lẫn nhau. Nó có diễn biến rất phức tạp mặc dù được hình thành và phát triển có quy luật.. Khi xã hội ngày càng phát triển, các mối quan hệ xã hội ngày càng trở nên phức tạp và đa dạng. Chính trong quá trình đó nảy sinh nhiều các hiện tượng tâm lý xã hội khác nhau. Việc nghiên cứu các hiện tượng tâm lý xã hội có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong thực tiễn hiện nay.

2. Các nhóm dân tộc

Các nhóm tộc người là ví dụ về nhóm lớn xã hội có ý nghĩa trong quá trình xã hội lịch sử. Khác với tâm lý học giai cấp, các đặc điểm của các nhóm tộc người, trước hết là dân  tộc được nghiên cứu nhiều hơn. Một nhánh đặc biệt của khoa học giao thoa giữa Tâm lý học xã hội và Dân tộc học – Tâm lý học tộc người, nghiên cứu riêng biệt những vấn đề nêu trên (Xtêphanhencô, 1999).

Truyền thống nghiên cứu Tâm lý học nhóm tộc người trong Tâm lý học xã hội bắt đầu từ các công trình của W.Wundt trong “Tâm lý học dân tộc”. Sự  thâu thuộc về tộc người của cá nhân là nhân tố đặc biệt có ý nghĩa đối với Tâm lý xã hội học. Bởi lẽ nó xác định những đặc trưng nhất định của môi trường vi mô. Trong các điều kiện của môi trường đó, nhân cách được hình thành. Đặc trưng tộc người ở một mức độ nhất định tập trung trong kinh nghiệm lịch sử của mỗi tộc người và việc lĩnh hội các kinh nghiệm này là nội dung quan trọng nhất của quá trình xã hội hóa. Thông qua môi trường xung quanh gần gũi nhất trước tiên là gia đình, nhà trường, cá nhân theo từng mức độ phát triển tiếp cận với đặc trưng văn hóa tộc người, tập quán truyền thống, phương thức, ý thức về sự thâu thuộc vào tộc người phụ thuộc vào các điều kiện xã hội lịch sử cụ thể của sự tồn tại của tộc người đó.

Tương ứng với truyền thống được hình thành trong Tâm lý học xã hội nhóm lớn, trong tâm lý học cộng đồng tộc người phân biệt hai mặt: 1. Tính cách dân tộc – phần ổn định hơn cả – nếp tâm lý (bao gồm, tính cách khí chất và cả truyền thống, tập quán) của một tộc người hoặc cả một dân tộc;  2. Phương diện xúc cảm (bao gồm tình cảm dân tộc, tộc  người).

3. Tính cách dân tộc là gì?

– Tính cách dân tộc: Đây là khái niệm phổ biến hơn cả để mô tả các đặc điểm của nếp tâm lý tộc người (dân tộc). Mặc dù còn nhiều mâu thuẫn vả nhiều tranh luận liên quan đến nội dung của tính cách dân tộc nhưng trong các nghiên cứu cụ thể vẫn có sự đồng thuận tương đối lớn khi mô tả các nét tính cách dân tộc ở nhiều nhóm dân tộc riêng lẻ (tính dũng cảm, yêu lao động, khả năng kiềm chế…). Liên quan đến bản chất của tính cách dân tộc thì ở đây xuất hiện nhiều vấn đề gây tranh cãi. Trước tiên là nét tính cách dân tộc có quan hệ như thế nào với các nét tính cách của mỗi đại diện của nó. Liệu các nét tính cách có phải hoàn toàn chỉ có ở một dân tộc mà hoàn toàn không có ở các nhóm khác (tức là liệu có thể nói rằng một dân tộc nào đó yêu lao động, còn dân tộc khác – cởi mở). Cuối cùng các nét tính cách dân tộc và tính cách xã hội tác động qua lại như thế nào? Do vậy không chỉ đơn giản nói về tập hợp các nét tính cách mà chủ yếu là về mức độ biểu hiện của nét này hay nét khác trong tập hợp đó, về đặc trưng trong cách biểu hiện của nó: Không  phải ngẫu nhiên các tài liệu tập trung vào việc xác định một số đặc trưng nào đó.  Ví  dụ, đặc trưng của người Anh là hài hước, mặc dù sự hài hước không chỉ có ở người Anh. Giải thích sự hình thành tính cách tộc người cũng là công việc được nhiều nhà nghiên  cứu quan  tâm. Các nhà nghiên cứu đã đi theo nhiều cách tiếp cận khác nhau để giải quyết vấn đề này. Từ cách tiếp cận dựa trên các điều kiện tự nhiên, khí hậu đến tiếp cận dựa trên sự giao thoa và khuyếch tán văn hóa; từ tiếp cận dựa trên các đặc điểm sinh học thể chất, đến tiếp cận hoạt động sống của tộc người. Tuy vậy, câu hỏi này vẫn cần những nghiên cứu tiếp

Trong nghiên cứu tính cách dân tộc, ngoài việc tìm hiểu tập quán và truyền thống, việc phân tích ngôn ngữ đóng vai trò đặc biệt quan trọng. Bởi lẽ, việc truyền lại các nét tính  cách dân tộc được thực hiện trong quá trình xã hội hóa, trước tiên là trực tiếp qua ngôn  ngữ. Tính ổn định tương đối của các nét tính cách dân tộc, dù có sự thay đổi của môi trường được giải thích bằng sự xuất hiện của sức ỳ nào đó, được đảm bảo bằng con đường chuyển giao kinh nghiệm giữa các thế hệ.

– Phương diện xúc cảm của tộc người bao gồm sự đồng nhất tộc người và ý thức tự giác tộc người. Các đặc trưng này liên quan đến ý thức của con người về sự thâu thuộc của bản thân vào một nhóm tộc người nhất định và sự trải nghiệm xúc cảm về việc đó, tức là tiếp nhận và trải nghiệm sự khác biệt văn hóa của nhóm mình với nhóm khác. Cùng với quá trình đó là sự xuất hiện của các khuôn mẫu tộc người.

4. Đặc điểm Tâm lý dân tộc

Tính cộng đồng tâm lý có ở mọi nhóm tộc người được thể hiện trong sự hình thành tình cảm “chúng ta” nào đó. Đối với nhóm tộc người “tình cảm chúng ta” xác định ý thức về  các đặc điểm của tộc người mình khác biệt với tộc người khác. Hình ảnh của các nhóm khác, trong đó thường bị làm tầm thường hóa, được hình thành dưới ảnh hưởng của các quan hệ liên nhóm, các quan hệ tạo ra tâm thế đặc biệt cho các đại diện của nhóm khác. Trong đó kinh nghiệm giao tiếp với nhóm tộc người khác có vai trò nhất định. Nếu các quan hệ này trong quá khứ mang tính thù địch thì màu sắc đó được di chuyển sang mỗi đại diện được gặp lại của nhóm đó và bằng cách đó hình thành tâm thế tiêu cực.  Thường  xuyên hơn cả, khuôn mẫu tộc người xuất hiện vì sự hạn chế của giao tiếp liên nhóm: các  nét có ở những đại diện cá biệt của nhóm tộc người (khác) lần lượt được phổ biến ra toàn  bộ nhóm (Stêphanhencô, 1999).

Khuôn mẫu được hình thành bằng cách đó sau này ảnh hưởng tới sự xuất hiện của thái độ thiện cảm hay không thiện cảm của tộc người. Bản thân sự ý thức về các đặc điểm của tộc người không chứa đựng định kiến trước chống lại tộc người khác. Nhưng vấn đề vẫn xảy ra cho tới khi sự tương phản của các khác biệt được nhận thức vẫn còn tiếp diễn. Tuy nhiên rất dễ chuyển từ sự tương phản sang việc đánh giá nhóm tộc người khác, sang sự  thân thiện hay không thiện cảm và khi đó có thể xảy ra sự hạ thấp hình ảnh của nhóm   khác. Trong các khuôn mẫu tộc người luôn luôn có sự va chạm mạnh mẽ của những kiểu ảnh hưởng từ ngoài tộc người, trước hết là xã hội, lịch sử, chính trị, cũng như những ảnh hưởng được quy định bởi nội dung văn hóa… Cơ chế tiếp theo của việc biến khuôn  mẫu  tộc người thành định kiến và sau đó là sự củng cố định kiến trong các học thuyết chinh trị, tư tưởng – vấn đề không phải của Tâm lý học xã hội. Khuôn mẫu tộc người luôn được hình thành trong một vài bối cảnh xã hội nào đó và khi đó chúng có được một hình thức bền vững – định kiến, tức là một cấu tạo có màu sắc xúc cảm tiêu cực mang tính quy chuẩn, chúng dễ dàng được sử dụng như là vũ khí của sự thù hằn dân tộc. Cũng từ đó xuất hiện về phương diện tâm lý học hiện tượng trung tâm tộc người (hay trung tâm luận tộc người, hay tự kì tộc người) – đề cao nhóm tộc người mình, mong muốn tiếp nhận mọi hiện tượng cuộc sống từ lập trường của nó, xác định một cách thống nhất các nét tính cách của tộc người.

Tính tương đối của các khác biệt tâm lý giữa các nhóm là đặc trưng quan trọng của  TLH nhóm tộc người (Kon, 1970). Những khác biệt này không thể tuyệt đối hóa và cần được xem như là cái phải sinh từ những điều kiện lịch sử nhất định, được củng cố trong chiều dài của hàng loạt các thế hệ (“sự chuyển giao văn hóa”). Dù cho có tính ổn định tương đối, các nét này có thể thay đổi theo lịch sử. Tâm lý học tộc người đã tích luỹ được một số lượng tương đối lớn những tư liệu thú vị liên quan đến những đặc điểm nếp tâm lý và hành vi của con người, bị quy định bởi sự thâu thuộc của họ vào một tộc người. Do vậy nhiệm vụ đặt ra cho Tâm lý học xã hội và Tâm lý học xã hội tộc người ngày nay tương đối phức tạp. Tính nóng bỏng chính trị của vấn đề trong thế giới hiện đại buộc phải giải quyết các vấn đề này với sự chính xác đặc biệt. Nguyên tắc bình đẳng các dân tộc, đặc trưng cho các chương trình chính trị của các quốc gia dân chủ không biểu thị sự thừa nhận tính giống nhau giữa các dân tộc. Từ đó chỉ ra các đặc điểm dân tộc, trong đó có sự khác biệt trong tâm lý dân tộc vẫn còn là một nhiệm vụ cấp thiết.

5. Đặc điểm Tâm lý giai cấp

Giữa sự đa dạng của các nhóm lớn các giai cấp xã hội có được sự quan tâm đặc biệt. Trong nhiều tập sách về Tâm lý học xã hội do H.Linđcey và E.Aronson chủ biên đã chỉ ra rằng bản thân thuật ngữ giai cấp có nội dung khác nhau đối với các nhà nghiên cứu châu âu và Mỹ. Đối với các nhà nghiên cứu phương Tây, khái niệm “giai cấp” hiện thực hơn bởi lẽ sự đồng nhất với giai cấp rõ ràng hơn, tương đối thường xuyên gắn với việc xác định sự thâu thuộc về chính trị. Đối với văn hóa, nhìn chung việc thao tác hóa khái niệm “giai cấp công nhân”, “giai cấp tư bản” là không đặc trưng nhưng họ lại quen hơn với khái niệm “giai cấp trung lưu”, “giai cấp bần cùng”… Điều đó liên quan tới việc trong các lý thuyết xã hội học cấu trúc xã hội được mô tả nhờ sự trợ giúp của các khái niệm như “các thiết chế kinh tế – xã hội” chứ không phải “giai cấp xã hội”. Một cách tự nhiên, điều đó không thể không ảnh hưởng tới những sự khác biệt trong cách hiểu cấu trúc Tâm lý học xã hội về giai cấp. Nói riêng, trong một mức độ lớn, thay vì phân tích tâm lý học về giai cấp, người ta đề nghị phân tích tâm lý học các tầng lớp xã hội khác nhau. Tuy vậy trong mọi tình huống cần lưu ý rằng bản chất của sự phân tích xã hội là ở chỗ làm rõ liên hệ giữa các đặc trưng tâm lý của nhóm và hình mẫu hành vi của các thành viên nhóm.

Từ cách hiểu truyền thống của xã hội học mác xít (trong đó có cả xã hội học Nga) về giai cấp có thể nhận thấy ba tuyến nghiên cứu tâm lý học giai cấp: Đó là chỉ ra các đặc điểm đặc thù của các giai cấp cụ thể đã tồn tại trong lịch sử và đang tồn tại; chỉ ra đặc trưng của các giai cấp khác nhau trong các thời đại nhất định; phân tích mối quan hệ giữa tâm lý giai cấp và tâm lý các thành viên riêng lẻ của giai cấp như là những trường hợp riêng của vấn đề mối quan hệ giữa tâm lý học nhóm và tâm lý học cá nhân. Đối với truyền thống này việc sử dụng thuật ngữ “tâm lý học giai cấp” có đặc trưng là không loại trừ sự phân tích tâm lý học các tầng lớp riêng lẻ tham gia vào giai cấp này hay giai cấp khác.

Phương diện động thái xúc cảm của tâm lý học giai cấp được nghiên cứu đầy đủ hơn cả, bao gồm các nhu cầu giai cấp, các lợi ích giai cấp, tập hợp các vai trò xã hội. Trong chừng mực vị trí xã hội nhất định, khối lượng và thành phần của các quyền lợi tinh thần và vật chất mà mỗi thành viên nhóm được phân bố chừng đó. Nó tạo ra cấu trúc nhất định của các nhu cầu, ý nghĩa tâm lý và trọng lượng của mỗi nhân tố. Bên cạnh đó vẫn còn một loạt các vấn đề đòi hỏi sự phân tích Tâm lý học xã hội. Lợi ích được hình thành như là lợi ích của toàn nhóm, nhưng mỗi thành viên của giai cấp không chỉ tham gia vào nhóm đó mà họ còn là thành viên của nhiều nhóm xã hội khác: Thứ nhất, ngay trong bản thân mỗi giai cấp có nhiều tiểu nhóm được phân biệt bằng trình độ nghề nghiệp của nó theo các phương diện công việc… Thứ hai, mỗi thành viên của một giai cấp có thể đồng thời là thành viên của một nhóm nào đó trong phương diện học vấn (ví dụ trong trường đại học, trường phổ thông), nơi thành viên đó tác động qua lại trực tiếp với những thành viên của các giai cấp khác. Xuất hiện sự đan xen các lợi ích khác nhau, mỗi lợi ích trong số đó được xác định bởi sự thâu thuộc vào một nhóm có giá trị xã hội. Trong hệ thống các lợi ích của cá nhân có những lợi ích bền vững hơn và ngược lại trong một số những tình huống nào đó, các lợi ích ít sâu sắc hơn bắt đầu đóng vai trò nổi bật – có ý nghĩa mang tính nguyên tắc.

Các yếu tố tham gia vào phần biến động của tâm lý học giai cấp như tập hợp các vai trò xã hội và định hướng xã hội tương ứng của cá nhân… cũng như tính chưa rõ ràng của các khái niệm này trong khi áp dụng vào việc phân tích tâm lý học nhóm lớn trên thực tế chưa được nghiên cứu. Điều này cũng đúng với một hiện tượng được gọi là “tình cảm xã hội”. Khái niệm tình cảm xã hội không phải được thừa nhận chung trong các tài liệu. Ở một mức độ nhất định, nhiều vấn đề về tình cảm xã hội còn tranh luận. Do vậy có thể sử dụng nó như một định nghĩa mô tả trạng thái nào đó trong phương diện xúc cảm của nhóm (Ví dụ: “căm thù giai cấp”, xúc cảm xuất hiện trong mối liên hệ với mọi sự đồng nhất xã hội liên quan tới sự bất bình đẳng). Do vậy tính không xác định của thuật ngữ không làm giảm ý nghĩa của bản thân vấn đề. Nó chỉ chứng tỏ rằng trong Tâm lý học xã hội chưa có truyền thống nghiên cứu lĩnh vực này với sự trợ giúp của một bộ máy khái niệm khoa học. Tâm lý học xã hội buộc phải kết hợp hệ thống các thuật ngữ từ các khoa học khác như văn học nhân văn, triết học và lịch sử.

Khi đề cập tới việc xác định các thành phần ổn định hơn trong tâm lý học giai cấp thì có thể thấy vấn đề này ít được nghiên cứu hơn ở một mức độ đáng kể. Liên quan tới giai cấp, nếp tâm lý thường được mô tả như là một diện mạo tâm lý thể hiện trong một phương thức đặc biệt của hành vi và hoạt động, trên cơ sở đó có thể tái thiết kế các chuẩn mực điều chỉnh nhóm xã hội. Diện mạo đó thể hiện trong tính cách xã hội, những định nghĩa mang tính thao tác của cả khái niệm này cũng còn chưa được làm rõ trong các tài liệu riêng của Tâm lý học xã hội.

Thuật ngữ “tính cách xã hội” thực tế được đưa ra trong các công trình của trào lưu Phân tâm học mới, trong đó có các công trình của E.Fromm. Theo ông, tính cách xã hội – đó là mắt xích kết nối giữa tâm lý cá nhân và cấu trúc xã hội. Nhưng các loại tính cách xã hội ở Fromm không gắn với một giai cấp xã hội nhất định mà tương ứng với các kiểu khác nhau của sự tự tách biệt của con người trong các thời đại lịch sử khác nhau. Ông nêu ra các kiểu như sau: con người thời đại tiền tư bản (loại “tích luỹ”), những năm 20 của thế kỉ XX (“loại thị trường” gắn liền với xã hội “xa lánh hoàn toàn”). Do vậy tính cách xã hội thường xuyên hơn cả được xác định bằng cách mô tả những cái được thể hiện trong hình mẫu hành vi ứng xử ổn định đặc thù của các thành viên của các giai cấp khác nhau trong các tình huống trong hoạt động sống của họ và giúp phân biệt giai cấp này với giai cấp khác. Trong việc đưa ra các tính cách xã hội, các mô tả được chứa đựng trong lịch sử văn hóa, lịch sử quốc gia, trong các tài liệu văn học có thể được sử dụng (có thể nói đến các tác phẩm của Banzắc, Gorki). Văn học thực chất đã tiến hành công việc của tâm lý học trong việc thực hiện cái được gọi là chuyên khảo. Dù cho sản phẩm của nghiên cứu loại này không tồn tại dưới dạng các lý thuyết khoa học, không dưới dạng các khái niệm khoa học, mà dưới dạng các hình ảnh nghệ thuật, tức là dưới dạng các tài liệu văn học phản ánh hiện thực vẫn không làm mất đi giá trị của các nghiên cứu đó. Ngoài tính cách xã hội, khuôn mẫu xã hội được tìm thấy trong các thói quen và tập quán, cũng như truyền thống giai cấp. Tất cả các cấu tạo này đóng vai trò người điều chỉnh hành vi và hoạt động của các thành viên trong nhóm xã hội, do vậy có ý nghĩa lớn đối với việc hiểu tâm lý học nhóm. Chúng đưa ra đặc trưng quan trọng nhất của dấu hiệu mang tính tổ hợp của giai cấp như là lối sống của nó. Khía cạnh Tâm lý học xã hội của các nghiên cứu lối sống, nói riêng, là sao cho trong phạm vi vị trí khách quan của giai cấp, xác định và giải thích được hình mẫu hành vi nổi trội của đa số quần chúng đại diện cho giai cấp đó trong các tình huống độc đáo trong đời sống hàng ngày. Thói quen và tập quán được hình thành dưới ảnh hưởng của các điều kiện sống nhất định nhưng sau đó được củng cố và đóng vai trò cái điều chỉnh hành vi. Phân tích thói quen và tập quán chính là vấn đề riêng của Tâm lý học xã hội. Các phương pháp nghiên cứu vấn đề này gần với các phương pháp nghiên cứu tâm lý học truyền thống, trong một chừng mực nhất định ở đây có thể sử dụng phương pháp quan sát.

Như vậy chúng ta đã chỉ ra những hướng phân tích cơ bản, theo đó Tâm lý học xã hội còn phải thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu các đặc trưng tâm lý của các tầng lớp xã hội khác nhau và các phương thức mà nhờ chúng, tâm lý nhóm được “xây dựng”, đảm bảo cho “sự lãnh hội” hiện thực xã hội của mỗi cá nhân. Ở đây điều quan trọng là phải hiểu bằng cách nào quần chúng với số lượng tương đối lớn – với tất cả sự đa dạng về tâm lý của họ – trong những tình huống có ý nghĩa nào đó của cuộc sống thể hiện sự giống nhau trong các biểu tượng như thị hiếu, hay thậm chí cả những đánh giá xúc cảm về hiện thực. Các tình huống này là các tình huống trong điều kiện sống đặc biệt, được quy định trước hết bởi sự thâu thuộc vào một nhóm lớn xã hội cụ thể, do vậy Tâm lý học xã hội không thể bỏ qua sự kiện này khi xây dựng các mô hình giải thích hành vi và hoạt động của con người.