1. Thiên tai là gì? 

Điều 3 Luật phòng, chống thiên tai năm 2013 đã định nghĩa về thiên tai như sau:

“Thiên tai là hiện tượng tự nhiên bất thường có thể gây thiệt hại về người, tài sản, môi trường, điều kiện sống và những hoạt động kinh tế – xã hội, bao gồm: bão, áp thấp nhiệt đới, lốc, sét, mưa lớn, lũ, lũ quét, ngập lụt, sạt lở đất do mưa lũ hoặc dòng chảy, sụt lún đất do mưa lũ hoặc dòng chảy, nước dâng, xâm nhập mặn, nắng nóng, hạn hán, rét hại, mưa đá, sương muối, động đất, sóng thần và những loại thiên tai khác.”

Thiên tai là tác động tiêu cực sau khi xảy ra tai biến thiên nhiên thực tế trong trường hợp nó gây hại đáng kể cho cộng đồng. Đây là một thảm họa thiên nhiên có thể gây ra thiệt hại về người hoặc tài sản, và thường để lại một số thiệt hại kinh tế sau nó. Mức độ nghiêm trọng của thiệt hại phụ thuộc vào khả năng phục hồi của người dân bị ảnh hưởng và cơ sở hạ tầng sẵn có. Ví dụ về những hiểm họa tự nhiên bao gồm: tuyết lở, lũ lụt ven biển, sóng lạnh, hạn hán, động đất, mưa đá, sóng nhiệt, bão (xoáy thuận nhiệt đới), bão băng, lở đất, sét, lũ lụt ven sông, gió mạnh, lốc xoáy, sóng thần, hoạt động núi lửa, cháy rừng , thời tiết mùa đông. Hiện nay, sự phân chia giữa những thảm họa tự nhiên, nhân tạo và nhân tạo là khá khó để xác định. những lựa chọn và hoạt động của con người như kiến ​​trúc, lửa, quản lý tài nguyên hoặc thậm chí biến đổi khí hậu có khả năng đóng một vai trò nhất định trong việc gây ra “Thiên tai”. Trên thực tế, thuật ngữ “thảm họa thiên nhiên” đã được gọi là một từ nhầm lẫn vào năm 1976. Thảm họa là kết quả của một nguy cơ tự nhiên hoặc nhân tạo tác động đến một cộng đồng dễ bị tổn thương. Đó là sự kết hợp của mối nguy cùng với sự tiếp xúc của một xã hội dễ bị tổn thương dẫn đến một thảm họa.

Thiên tai có thể trở nên trầm trọng hơn do những tiêu chuẩn xây dựng không đầy đủ, con người bị gạt ra ngoài lề, bất bình đẳng, khai thác quá mức tài nguyên, sự mở rộng đô thị cực đoan và biến đổi khí hậu. Sự gia tăng nhanh chóng của dân số thế giới và sự tập trung gia tăng thường xuyên trong những môi trường độc hại đã làm gia tăng cả tần suất và mức độ nghiêm trọng của những thảm họa. Với khí hậu nhiệt đới và địa hình không ổn định, cộng với nạn phá rừng, sinh sôi nảy nở không có kế hoạch, những công trình xây dựng không được thiết kế khiến những khu vực thường xuyên xảy ra thiên tai càng dễ bị tổn thương hơn. những nước đang phát triển ít nhiều phải hứng chịu thiên tai triền miên do thông tin liên lạc không hiệu quả kết hợp với việc phân bổ ngân sách không đủ cho công tác phòng chống và quản lý thiên tai. Một sự kiện bất lợi sẽ không tăng đến mức thảm họa nếu nó xảy ra ở một khu vực không có dân số dễ bị tổn thương. Tuy nhiên, ở một khu vực dễ bị tổn thương, chẳng hạn như Nepal trong trận động đất năm 2015, một sự kiện bất lợi có thể gây ra hậu quả thảm khốc và để lại thiệt hại lâu dài, có thể mất nhiều năm để sửa chữa. Hậu quả tai hại còn ảnh hưởng đến sức khỏe tinh thần của cộng đồng bị ảnh hưởng, thường dẫn đến những triệu chứng sau chấn thương. Những trải nghiệm cảm xúc gia tăng này có thể được hỗ trợ thông qua quá trình xử lý tập thể, dẫn đến khả năng phục hồi và tăng cường sự tham gia của cộng đồng. 

 

2. Tác động của thiên tai

Thiên tai có thể gây ra thiệt hại về tính mạng, thương tật hoặc những tác động khác đến sức khỏe, thiệt hại tài sản, mất sinh kế và dịch vụ, gián đoạn kinh tế và xã hội, hoặc hủy hoại môi trường. Các hiện tượng khác nhau như động đất, lở đất, núi lửa phun trào, lũ lụt, bão, lốc xoáy, bão tuyết, sóng thần, lốc xoáy, cháy rừng và đại dịch đều là những hiểm họa tự nhiên giết chết hàng nghìn người và phá hủy môi trường sống và tài sản hàng tỷ đô la mỗi năm. Tuy nhiên, sự gia tăng nhanh chóng của dân số thế giới và sự tập trung gia tăng thường xuyên trong những môi trường độc hại đã làm gia tăng cả tần suất và mức độ nghiêm trọng của những thảm họa. Với khí hậu nhiệt đới và địa hình không ổn định, cộng với nạn phá rừng, sinh sôi nảy nở không có kế hoạch, những công trình xây dựng không được thiết kế khiến những khu vực thường xuyên xảy ra thiên tai càng dễ bị tổn thương hơn. những nước đang phát triển ít nhiều phải hứng chịu thiên tai triền miên do thông tin liên lạc không hiệu quả kết hợp với việc phân bổ ngân sách không đủ cho công tác phòng chống và quản lý thiên tai.

 

3. Nguyên nhân dẫn đến thiên tai

Có rất nhiều nguyên nhân gây nên thiên tai.

- Nguyên nhân đầu tiên phải kể đến sự thay đổi của thời tiết trong khí quyển như lượng mưa, nhiệt độ, áp suất trong khí quyển, gió,... Những thay đổi đột ngột trong thời tiết sẽ gây nên các hiện tượng như lốc xoáy, bão, sóng lạnh hoặc nóng,...

- Nguyên nhân thứ hai có thể kể đến thiên tai là con người. Con người tuy không đóng vai trò là nguyên nhân trực tiếp, nhưng là nguyên nhân gián tiếp tác động đến môi trường, bầu khí quyển như xả rác bừa bãi, tàn phá rừng, săn bắt động vật bừa bãi,... gây nên hiệu ứng nhà kính và tình trạng ô nhiễm môi trường. Từ đó, những nguyên nhân này khiến các thiên tai như lũ lụt, hạn hán, hỏa hoạn,... xảy ra.

- Nguyên nhân thứ ba có thể kể đến là do địa mạo. Địa mạo khiến thiên tai xảy ra khi gây nên chuyển động của các mạng kiến tạo và tác động đến lớp vỏ, lớp phủ của Trái Đất khiến thiên tai xảy đến như sóng thần, động đất, núi lửa phun trào.

- Thứ tư là nguyên nhân sinh học khiến hệ sinh thái trong tự nhiên bị mất cân bằng, dẫn đến sinh vật gây bệnh phát triển hoặc tạo nên những vật trung gian truyền bệnh. Do đó, sự phát triển của vi rút và vi khuẩn gây nên dịch bệnh, đại dịch như: Sốt xuất huyết, sốt rét, Covid-19, SARS, AIDS,...

- Nguyên nhân cuối cùng là do các không gian bên ngoài tác động đến hành tinh mà chúng ta đang sinh sống. Các thiên thạch rơi hoặc ca tiểu hành tinh “đi lạc” khiến Trái Đất của chúng ta thiệt hại nghiêm trọng về người và tài sản.

 

4. Thiên tai mang lại thiệt hại lớn nhất cho cư dân vùng biển là

Việt Nam có vị trí địa lý với đường bờ biển kéo dài 3.260km đã đem lại cho nước ta sự đa dạng về tự nhiên với nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú để phát triển kinh tế - xã hội. Song cùng với thuận lợi, vị trí địa lý nằm trong khu vực Đông Nam Á của Việt Nam cũng được xem là nguyên nhân khiến hàng năm nước ta luôn phải hứng chịu nhiều thiên tai gây thiệt hại lớn cho đời sống của người dân. Việt Nam có 3 loại thiên tai gồm: hạn hán, động đất, cháy rừng, tuy nhiên "bão" là một trong những loại hình thiên tai chủ yếu và nguy hiểm ở Việt Nam đặc biệt là đối với cư dân vùng biển. Việt Nam nằm trong khu vực Đông Nam Á, nơi được xem là "rốn bão" của thế giới, là một trong những vùng bão có số lượng lớn và cường độ mạnh với xu thế ngày càng gia tăng. Vì thế hàng năm, nước ta luôn là một trong những nước chịu nhiều thiệt hại và dễ bị tổn thương nhất của thiên tai, biến đối khi hậu. Bão vào thường gặp lúc triều cường, nước biển dâng cao, kèm theo mưa lớn kéo dài, gây lũ lụt.

Theo báo cáo của Ngân hàng thế giới và Quỹ Toàn cầu về Giảm nhẹ và Phục hồi thiên tai (báo cáo năm 2020), có khoảng 12 triệu người dân ở các tỉnh ven biển có nguy cơ bị ảnh hưởng bởi ngập lụt và hơn 35% các khu dân cư nằm dọc bờ biển đang bị xói lở; Ngành Du lịch ven biển chủ yếu dựa vào bãi biển và các hệ sinh thái nguyên sinh, tuy nhiên có đến 42% các khách sạn xây dựng ở khu vực ven biển nằm gần những bãi biển đang bị xói lở. Hàng năm, người dân sinh sống ở khu vực ven biển chịu ảnh hưởng nặng nề do thiên tai như: bão, nước dâng, sóng lớn, triều cường, xói lở bờ biển, hạn hán hoặc xâm nhập mặn. Trong đó, bão và nước dâng bão được coi là một trong các loại hình thiên tai có nguy cơ gây rủi ro cho tất cả các vùng ven biển Việt Nam. Theo các nghiên cứu của Tổng cục Khí tượng Thủy văn cho thấy, khu vực ven biển Thanh Hóa - Quảng Trị được coi là khu vực có nguy cơ nước dâng bão ở mức cao. Nước dâng bão lớn nhất theo số liệu quan trắc đã ghi nhận ở Việt Nam đạt 3,4m trong bão DAN năm 1989 đổ bộ vào Quảng Trị. Tuy nhiên, nước dâng do bão rất có thể còn lớn hơn tại những khu vực không có trạm đo mực nước mà chúng ta đã không xác định được. Nước dâng bão sẽ rất nguy hiểm nếu xảy ra vào kỳ triều cường. Có thể kể đến như bão số 2 (bão WUTIP) năm 2013 đổ bộ vào Hải Phòng với cường độ cấp 8, nước dâng bão chỉ dưới 1m, nhưng vào lúc triều cường đã gây ngập lụt diện rộng ở khu vực ven biển Đồ Sơn (Hải Phòng). Hay như cơn bão số 13 (bão VAMCO) đổ bộ vào Quảng Bình - Quảng Trị tháng 11/2020, mặc dù gây nước dâng khoảng 0,6m nhưng trùng với kỳ triều cường nên đã gây ngập úng tại nhiều khu vực trũng thấp ven biển các tỉnh từ Thừa Thiên Huế đến Quảng Nam.

Hệ thống đê biển của Việt Nam, với 2/3 số km đê (khoảng 2.659km), chưa đáp ứng đủ các tiêu chuẩn an toàn theo quy định thì rủi ro nguy cơ nước dâng bão đối với khu vực ven biển Việt Nam là rất lớn. Độ cao sóng trong các đợt gió mùa mạnh phổ biến từ 2-4m ở vùng ven bờ và 3-5m ở vùng biển ngoài khơi. Sóng lớn cũng gây ảnh hưởng lớn đến công trình trên biển, công trình ven biển và sinh kế của người dân khu vực ven biển. Có thể thấy, đợt gió mùa cường độ mạnh ngày 17/12/2020 đã gây sóng cao khoảng 4-5m làm tàu 1 tàu hàng (quốc tịch Panama) bị chìm ở khu vực đảo Phú Quý khiến 15 thủy thủ mất tích. Sóng lớn trên 5m chủ yếu xuất hiện trong bão. Gần đây có thể kể đến bão số 12 (bão DAMREY) đổ bộ vào Khánh Hòa tháng 11/2017, gây sóng lớn đã làm cho 107 thương vong và ảnh hưởng nặng nề đến sinh kế, đặc biệt là nghề nuôi trồng hải sản và tài sản của người dân khu vực ven biển Khánh Hòa. Sóng lớn trong bão số 12 cũng làm chìm 8 tầu chở hàng trọng tải lớn ở vịnh Quy Nhơn. Sóng lớn do hoàn lưu gió mạnh sau bão số 6 (bão LINFA, năm 2020) đã gây sóng cao từ 3-5m gây đắm tàu tại ven biển Cửa Việt làm 2 người bị chết. Bão số 13 (bão VAMCO, năm 2020) đã gây sóng lớn 8-9m ở khu vực Biển Đông, tại khu vực ven bờ, gió mạnh trong bão số 13 cũng gây sóng lớn cao tới 7m tại vùng biển khu vực đảo Cồn Cỏ (Quảng Trị), sóng lớn làm chìm 2 tàu cá ngoài khơi Khánh Hòa, 23 người trên tàu mất tính. Ngoài ra, sóng lớn trong bão số 13 đã làm sạt lở nhiều tuyến đê, kè biển tại các tỉnh Quảng Bình, Thừa Thiên - Huế, Đà Nẵng và Quảng Nam.

 

5. Tổng hợp các loại thiên tai thường thấy hiện nay

Có rất nhiều thảm họa thiên nhiên xảy ra và gây ảnh hưởng đến con người. Dưới đây là một số thảm họa thiên nhiên:

- Thảm họa do động đất:

Thiên tai hay thảm họa do động đất bắt nguồn từ sự chuyển động bất ngờ của vỏ Trái Đất. Động đất có thể xảy ra tùy theo định mức và có thể bắt nguồn từ vỏ Trái Đất hoặc sâu trong lòng Trái Đất. Thường thì thảm họa do động đất gây nên không quá ảnh hưởng đến con người. Con người có thể phòng tránh động đất bằng cách xây dựng lại hệ thống nhà cửa, sử dụng các cảnh báo sớm để phòng tránh và sơ tán kịp thời.

Ví dụ: Ở Trung Quốc vào ngày 12 tháng 5 năm 2008, xảy ra một trận động đất ở Tứ Xuyên với cường độ là 7.9 độ, khiến 61,150 người thiệt mạng.

- Thiên tai do núi lửa phun trào:

Phun trào núi lửa là một thảm họa bởi gây ra do sức nổ của núi lửa hoặc đất đá rơi xuống và hiệu ứng diễn ra sau một vụ phun trào núi lửa, ảnh hưởng đến đời sống con người.

Những vật liệu đá siêu nóng từ vụ phun trào núi lửa gọi là dung nham.

Dung nham có thể xuất hiện theo nhiều hình thức như dính keo hoặc dễ dàng vỡ vụn. Những dung nham này sẽ phá hủy tất cả những gì mà nó gặp phải bao gồm nhà cửa, công trình, cây cối. Sau khi dung nham nguội sẽ hình thành tro núi lửa, gọi là tro nguội. Tro nguội sẽ tạo thành hình đám mây và rơi xuống những khu vực xung quanh. Khi tro trộn với nước sẽ hình thành khối vật liệu cứng như bê tông. Khi số lượng tro này tích tụ dần gây ảnh hưởng sức khỏe nếu con người hít phải hoặc có thể gây sụp đổ mái nhà nếu tích tụ quá nhiều. Trong tro núi lửa có chứa thủy tinh khiến các thiết bị chuyển động bị mài mòn.

Ngoài ra còn có hiện tượng siêu núi lửa là những đám mây tro to lớn, gây nên thảm họa nguy hiểm cho toàn Trái Đất và khí hậu. Các dòng chảy nham tầng sẽ ảnh hưởng đến không khí bên trong khí quyển, trọng lượng của nó vô cùng nặng và khiến những thứ nó gặp phải đều bị đốt cháy.

- Thảm họa do nước, lũ lụt:

Lũ lụt thường gặp tại những nơi có nhiều nước như sông, hồ sau đó gây ngập cho một vùng đất. Lũ lụt có thể là hiện tượng ngập úng do nước biển dâng bất ngờ do bão hoặc do thủy triều dâng lên. Lũ lụt có thể do mưa lớn làm vỡ đê hoặc có hiện tượng ngập úng, dòng chảy bị ứ đọng. Đôi khi lụt có thể là do hiện tượng tuyết tan hoặc giáng thủy, khiến cho đồng ruộng, làng mạc, thành phố chìm trong biển nước.

Ví dụ: Vào năm 2000, trận lụt lịch sử tại nước Mozambique khiến gần như toàn bộ nước này chìm trong nước nước 3 tuần, đất nước bị tàn phá và hàng nghìn người chết.

- Thiên tai do thời tiết:

Thiên tai do thời tiết bao gồm bão, hạn hán, gió nóng, vòi rồng, bão tuyết,... Trong đó, bão còn được gọi là bão nhiệt đới, thường xuất hiện ở nước ta vào mùa mưa, gây ảnh hưởng tiêu cực đến nhà cửa, cây cối, hoa màu. Vào năm 2005 tại Gulf Coast ở Hoa Kỳ đã xuất hiện một cơn bão là Bão Katrina tàn phá khu vực của nước này. Hạn hán cũng được xem là một loại thiên tai gây ảnh hưởng xấu cho con người. Nước là một tài nguyên không thể thiếu đối với con người, gia súc và hoa màu. Vì vậy bạn tưởng tượng nếu không có mưa trong một thời gian dài, bạn sẽ sống thế nào? Hiện tượng thiếu nước trong một thời gian dài có thể khiến con người, cây cối và gia súc thiệt mạng.

Ví dụ điển hình là tại Trung Quốc vào năm 2006, nước này đã xảy ra một trận hạn hán tồi tệ khiến 8 triệu người và 7 triệu gia súc thiếu nguồn nước nghiêm trọng.

- Thiên tai do dịch bệnh:

Dịch bệnh là sự lây lan của những bệnh truyền nhiễm khiến số lượng người nhiễm bệnh tăng nhanh chóng trong thời gian ngắn. Dịch bệnh thường gây nên bởi vi rút từ những loài vật chủ, sự thay đổi di truyền trong các ổ bệnh, hay có thể bắt đầu từ những biến đổi do tác nhân gây bệnh hoặc vật chủ gây nên. Những đợt dịch bệnh lớn xảy ra trên thế giới gồm có: Dịch cúm Châu Á, dịch cúm Tây Ban Nha, cúm Hồng Kông, SARS, cúm H1N1, COVID-19, sốt rét, sốt xuất huyết Ebola,... khiến hàng triệu người đã thiệt mạng và gây chấn động toàn thế giới.