1. Cấm đi khỏi nơi cư trú là gì? 

Cấm đi khỏi nơi cư trú là biện pháp ngăn chặn ít nghiêm khắc hơn so với biện pháp ngăn chặn tạm giam. Người bị áp dụng biện pháp này sẽ không bị cách ly hoàn toàn khỏi xã hội mà chỉ bị hạn chế quyền tự do đi lại.

Theo khoản 1 Điều 123 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015, cấm đi khỏi nơi cư trú là biện pháp ngăn chặn có thể áp dụng đối với bị can, bị cáo có nơi cư trú, lý lịch rõ ràng nhằm bảo đảm sự có mặt của họ theo giấy triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án. Nơi cư trú của công dân là nơi thường trú hoặc nơi tạm trú.  Như vậy, ta có thể hiểu cấm đi khỏi nơi cư trú là cấm đi khỏi nơi thường xuyên sinh sống, nơi đăng ký hộ khẩu thường trú của người bị áp dụng biện pháp ngăn chặn này. 

Đối tượng áp dụng lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú

Đối tượng có thể bị áp dụng lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú là các bị can, bị cáo. Trong các quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015, không có quy định bắt buộc rằng biện pháp ngăn chặn này được áp dụng đối với phạm tội lần đầu, tội ít nghiêm trọng hay tội rất nghiêm trọng. Căn cứ nơi cư trú rõ ràng thường được hiểu là bị can, bị cáo có nơi ở ổn định, thường xuyên, đã đăng ký thường trú ở địa điểm đó. Do đó, ta có thể hiểu rằng, cấm đi khỏi nơi cư trú có thể được áp dụng đối với mọi tội phạm. 

Khi tiến hành áp dụng biện pháp ngăn chặn này, bị can, bị cáo bị cấm đi khỏi nơi cư trú phải làm giấy cam đoan

Giấy cam đoan mà bị can, bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn này được dùng để đảm bảo rằng họ phải thực hiện các nghĩa vụ được nêu tại Khoản 2 Điều 123 Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015. Cụ thể như sau:

 - Không đi khỏi nơi cư trú nếu không được cơ quan đã ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú cho phép;

 - Có mặt theo giấy triệu tập, trừ trường hợp vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan;

 - Không bỏ trốn hoặc tiếp tục phạm tội;

 - Không mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; không tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; không đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm và người thân thích của những người này. 

Nếu bị can, bị cáo đã viết giấy cam đoan nhưng lại vi phạm nghĩa vụ cam đoan thì chính quyền xã/phường/thị trấn nơi bị can, bị cáo đang cư trú phải báo ngay cho cơ quan đã ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú để có những biện pháp xử lý kịp thời. Trong trường hợp vi phạm nghĩa vụ cam đoan, bị can, bị cáo sẽ bị áp dụng biện pháp ngăn chặn khác đó là bị tạm giam.

  Thẩm quyền ra quyết định áp dụng lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú

  Căn cứ vào khoản 3 Điều 123 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015, những người có thẩm quyền ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú bao gồm: 

 - Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp. Trường hợp này, quyết định phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành

 - Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân và Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự các cấp

 - Chánh án, Phó Chánh án Tòa án nhân dân và Chánh án, Phó Chánh án Tòa án quân sự các cấp; Hội đồng xét xử

 - Thẩm phán chủ tọa phiên tòa

 - Đồn trưởng Đồn biên phòng

  Người ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú phải thông báo về việc áp dụng biện pháp này cho chính quyền xã/phường/thị trấn nơi bị can, bị cáo cư trú, đơn vị quân đội đang quản lý bị can, bị cáo và giao bị can, bị cáo cho chính quyền xã/phường/thị trấn hoặc đơn vị quân đội đó để quản lý, theo dõi họ.

 

2. Thời hạn cấm đi khỏi nơi cư trú

Theo quy định tại Khoản 4 Điều 123 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015, thời hạn cấm đi khỏi nơi cư trú không quá thời hạn điều tra, truy tố hoặc xét xử theo quy định của Bộ luật này. Thời hạn cấm đi khỏi nơi cư trú đối với người bị kết án phạt tù không quá thời hạn kể từ khi tuyên án cho đến thời điểm người đó chấp hành án phạt tù.

 

2.1. Giai đoạn điều tra

Sau khi khởi tố vụ án hình sự nếu thấy cần thiết, Cơ quan điều tra ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú đối với bị can. Trong lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú phải ghi thời hạn cấm đi khỏi nơi cư trú đối với bị can, bắt đầu từ khi khởi tố bị can đó đến khi kết thúc thời hạn điều tra vụ án. Tức là khi hết thời hạn điều tra vụ án hình sự (kể cả khi thời hạn điều tra bị gia hạn) thì lệnh cấm bị can đi khỏi nơi cư trú cũng không còn hiệu lực.

 

2.2. Giai đoạn truy tố

Sau khi nhận được Kết luận điều tra của Cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú thì thời hạn cấm đi khỏi nơi cư trú đối với bị can được tính từ khi bắt đầu thời hạn truy tố đến khi hết thời hạn truy tố, kể cả trường hợp thời gian truy tố bị gia hạn. 

 

2.3. Giai đoạn xét xử

Giai đoạn xét xử sơ thẩm

Theo quy định tại Bộ luật tố tụng Hình sự hiện hành tại khoản 1 Điều 277; khoản 3 Điều 278; khoản 1, khoản 3 Điều 329, thời hạn lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú có thể chia thành các trường hợp sau:

 - Trường hợp 1: Thời hạn lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú được tính từ khi Tòa án thụ lý vụ án đến trước ngày mở phiên tòa sở thẩm, cụ thể như sau:

 + Nếu không phải gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử thì thời hạn là 30 ngày đối với tội ít nghiêm trọng, 45 ngày đối với tội nghiêm trọng, 02 tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng, 03 tháng đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng

 + Nếu phải gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử thì nối tiếp thêm 15 ngày đối với tội ít nghiêm trọng và tội nghiêm trọng; nối tiếp thêm 30 ngày đối với tội rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng 

 + Đối với vụ án bị trả hồ sơ để yêu cầu điều tra bổ sung thì thời hạn là 25 ngày kể từ ngày nhận lại hồ sơ

 - Trường hợp 2: đối với bị cáo đang bị cấm đi khỏi nơi cư trú mà đến ngày mở phiên tòa, thời hạn đã hết, nếu thấy cần thiết tiếp tục áp dụng biện pháp ngăn chặn này để hoàn thành việc xét xử thì Hội đồng xét xử ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú nối tiếp thời hạn đến khi kết thúc phiên tòa.

 - Trường hợp 3: khi bị cáo đang bị cấm đi khỏi nơi cư trú mà bị xử phạt tù nhưng xét thấy cần tiếp tục áp dụng biện pháp ngăn chặn này để bảio đảm thi hành án hoặc hoàn tất thủ tục chuyển hồ sơ đến Tòa án cấp phúc thẩm do bản án bị kháng cáo hoặc kháng nghị thì Hội đồng xét xử ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú trong thời hạn 45 ngày kể từ ngày tuyên án.

Giai đoạn xét xử phúc thẩm

Căn cứ vào các quy định khoản 1 Điều 346; khoản 2, khoản 3 Điều 347 của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, thời hạn của lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú trong giai đoạn xét xử phúc thẩm được chia thành 03 trường hợp như sau:

 - Trường hợp 1: từ thời điểm Tòa án thụ lý vụ án đến trước ngày mở phiên tòa phúc thẩm, thời hạn cấm đi khỏi nơi cư trú là 60 ngày đối với Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án quân sự cấp quân khu; 90 ngày đối với Tòa án nhân dân cấp cao, Tòa án quân sự trung ương.

  Trường hợp lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú của cấp sơ thẩm còn thời hạn mà xét thấy cần phải tiếp tục áp dụng biện pháp ngăn chặn này thì Tòa án cấp phúc thẩm vẫn sử dụng lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú của Tòa án cấp sơ thẩm. Nếu lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú của Tòa án cấp sơ thẩm hết thời hạn thì Chánh án, Phó Chánh án, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú mới (thời hạn không quá thời hạn xét xử phúc thẩm).

 - Trường hợp 2: đối với bị cáo đang bị cấm đi khỏi nơi cư trú, nếu xét thấy cần tiếp tục áp dụng biện pháp ngăn chặn này để hoàn thành việc xét xử thì Hội đồng xét xử ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú cho đến khi kết thúc phiên tòa.

 - Trường hợp 3: đối với bị cáo đang bị cấm đi khỏi nơi cư trú, bị xử phạt tù mà đến ngày kết thúc phiên tòa phúc thẩm cũng hết thời hạn lệnh này thì Hội đồng xét xử tiếp tục ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú để bảo đảm việc thi hành án, trừ trường hợp bị cáo bị xử phạt tù nhưng cho hưởng án treo. Thời hạn cấm đi khỏi nơi cư trú trong trường hợp này là 45 ngày kể từ ngày tuyên án.

>> Xem thêm: Mẫu lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú của Tòa án mới nhất

 

3. Thủ tục áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú

Khi áp dụng biện pháp ngăn chặn là cấm đi khỏi nơi cư trú, các cơ quan tố tụng phải tuân thủ theo trình tự thủ tục như sau:

- Bị can, bị cáo phải làm giấy cam đoan thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ theo quy định tại khoản 2 Điều 123 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

- Cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng biện pháp này phải có lệnh thể hiện bằng văn ban. Tuy nhiên, đến nay Tòa án nhân dân tối cao vẫn chưa ban hành biểu mẫu về lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú để các Tòa án địa phương áp dụng một cách thống nhất trên cả nước.

Nội dung của Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú bao gồm những nội dung cơ bản sau: Ghi rõ căn cứ áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú; tên của xã/phường/thị trấn nơi bị can, bị cáo đang cư trú; các nghĩa vụ mà bị can, bị cáo phải chấp hành; hậu quả của việc không thực hiện các nghĩa vụ đã cam kết; thời hạn bị cấm đi khỏi nơi cư trú.

 - Người ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú phải thông báo về việc áp dụng biện pháp này cho chính quyền xã/phường/thị trấn nơi bị can, bị cáo cư trú, đơn vị quân đội đang quản lý bị can, bị cáo và giao bị can, bị cáo cho chính quyền xã/phường/thị trấn hoặc đơn vị quân đội đó để quản lý, theo dõi họ.

 - Trường hợp bị can, bị cáo vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan phải tạm thười đi khỏi nơi cư trú thì phải được sự đồng ý của chính quyền xã/phường/thị trấn nơi người đó cư trú hoặc đơn vị quân đội quản lý họ và phải có giấy cho phép của người đã ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú. 

 - Trong trường hợp bị can, bị cáo vi phạm cam đoan thì chính quyền xã/phường/thị trấn nơi bị can, bị cáo cư trú, đơn vị quân đội đang quản lý bị can, bị cáo phải báo ngay cho cơ quan đã ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú để xử lý theo thẩm quyền.

Trên đây là nội dung tư vấn của vấn đề " Thời hạn lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú" và những nội dung pháp lý liên quan. Mọi sự vướng mắc hay có yêu cầu hỗ trợ pháp lý khác, vui lòng liên hệ đến bộ phận tư vấn pháp luật trực tiếp qua tổng đài điện thoại, gọi ngay tới số: 1900.6162 để được giải đáp. Trân trọng!