Mục lục bài viết
- 1. Quy định chung về biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú
- 2. Đối tượng áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú
- 3. Thẩm quyền ra quyết định áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú
- 4. Nghĩa vụ của bị can khi bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú
- 5. Thời hạn áp dụng biện cấm đi khỏi nơi cư trú theo quy định của BLTTHS năm 2015
- 6. Thủ tục áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú theo quy định của bộ luật tố tụng hình sự năm 2015
1. Quy định chung về biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú
Cấm đi khỏi nơi cư trú là biện pháp ngăn chặn có thể áp dụng đối với bị can, bị cáo có noi cư trú, lý lịch rõ ràng nhằm bảo đảm sự có mặt của họ theo giấy triệu tập của cơ quan điều tra,viện kiểm sát, toà án.
Biện pháp này chỉ áp dụng đối với bị can bị cáo phạm tội ít nghiêm trọng, lần đầu, có nơi cư trú rõ ràng, có thái độ khai báo thành khẩn, trong trường hợp bị can, bị cáo không bị bắt để tạm giam hoặc đã bị tạm giam nhưng được cơ quan điều tra, viện kiểm sát, toà án cho tại ngoại khi có đủ cơ sở cho rằng họ sẽ không bỏ trốn, không gây cần trở cho việc điều tra, truy tố và xét xử hoặc tiếp tục phạm tội.
Khi áp dụng biện pháp này, cơ quan điều tra, viện kiểm sát hoặc toà án buộc bị can, bị cáo làm giấy cam đoan không đi khỏi nơi cư trú của mình và phải có mặt khi có giấy triệu tập. Trong trường hợp bị can, bị cáo có lí do chính đáng phải tạm thời đi khỏi nơi cư trú thì phải được sự đồng ý của chính quyền xã, phường, thị trấn nơi người đó cư trú và phải có giấy phép của cơ quan đã áp dụng biện pháp ngăn chặn.
Nếu bị can, bị cáo vi phạm cam đoan sẽ bị áp dụng biện pháp ngăn chặn khác.
Người ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú phải thông báo về việc áp dụng biện pháp này cho chính quyền xã, phường, thị trấn nơi bị can, bị cáo cư trú và giao bị can, bị cáo cho chính quyền xã, phường, thị trấn để quản lí, theo dõi.
2. Đối tượng áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú
Biện pháp ngăn chặn này ít nghiêm khắc hơn biện pháp tạm giam, người bị áp dụng biện pháp này không bị cách li khỏi xã hội mà họ chỉ bị hạn chế quyền tự do đi lại. Do đó, đối tượng áp dụng biện pháp này thường là bị can, bị cáo
- Phạm tội ít nghiêm trọng,
- Phạm tội lần đầu,
- Có nơi ở nơi cư trú rõ ràng,
- Thái độ khai báo thành khẩn
- Và có đủ cơ sở cho rằng họ sẽ không bỏ trốn,
- Không gây cản trở cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc tiếp tục phạm tội.
3. Thẩm quyền ra quyết định áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú
Cơ sở pháp lý căn cứ Khoản 3 điều 123 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015:
Theo quy định của BLTTHS năm 2015 những người sau đây có quyền áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú:
- Thủ trưởng. Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp;
- Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân và Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự các cấp;
- Chánh án. Phó Chánh án Tòa án nhân dân và Chánh án. Phó Chánh án Tòa án quân sự các cấp. Hội đồng xét xử;
- Thẩm phán chủ tọa phiên tòa;
- Đồn trưởng Đồn biên phòng.
Lưu ý khi Thủ trưởng. Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp áp dụng biện pháp này phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành.
4. Nghĩa vụ của bị can khi bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú
Bị can, bị cáo bị cấm đi khỏi nơi cư trú phải làm giấy cam đoan cam kết không đi khỏi nơi cư trú nếu không được cơ quan đã ra lệnh cấm cho phép; có mặt theo giấy triệu tập, trừ trường hợp vì lí do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan; không bỏ trốn hoặc tiếp tục phạm tội; không mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; không tiêu huỷ, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; không đe doạ, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm và người thân thích của những người này.
Trong thời gian bị cấm đi khỏi nơi cư trú, bị can, bị cáo phải chịu sự quản lí, giám sát về việc đi lại của chính quyền xã, phường hoặc thị trấn nơi mình cư trú hoặc đơn vị quân đội đang quản lí họ. Trường hợp bị can, bị cáo vì lí do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan cần phải tạm thời đi khỏi noi cư trú của mình thì phải được sự đồng ý của chính quyền xã, phường hoặc thị trấn noi mình cư trú hoặc đon vị quân đội đang quản lí họ và phải có giấy phép của người đã áp dụng biện pháp ngăn chặn. Cơ quan chính quyền, đơn vị nơi bị cáo cư trú hoặc đơn vị quân đội đang quản lí bị can, bị cáo không có quyền tự ý cho bị cáo rời khỏi nơi cư trú. Nếu bị can, bị cáo vi phạm cam đoan thì chính quyền xã, phường hoặc thị trấn nơi mình cư trú hoặc đơn vị quân đội đang quản lí họ phải báo ngay cho cơ quan đã ra lệnh và bị can, bị cáo sẽ bị áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam.
5. Thời hạn áp dụng biện cấm đi khỏi nơi cư trú theo quy định của BLTTHS năm 2015
Cơ sở pháp lý: Khoản 4 điều 123 BLTTHS năm 2015
Trong thực tiễn giải quyết các vụ án hình sự, sau khi Cơ quan điều tra ra lệnh áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú thì lệnh này sẽ tồn tại suốt quá trình điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án nếu không được thay thế bằng biện pháp ngăn chặn khác.
Do đó có trường hợp có bị cáo sau khi xét xử hàng chục năm vẫn còn lệnh này vì Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 không quy định thời hạn cấm đi khỏi nơi cư trú cũng không quy định khi nào khi hết thời hạn áp dụng biện pháp này.
Theo quy định tại Khoản 4 Điều 123 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 thì “Thời hạn cấm đi khỏi nơi cư trú không quá thời hạn điều tra, truy tố hoặc xét xử theo quy định của Bộ luật này. Thời hạn cấm đi khỏi nơi cư trú đối với người bị kết án phạt tù không quá thời hạn kể từ khi tuyên án cho đến thời điểm người đó đi chấp hành án phạt tù”.
Tức thời hạn cấm đi khỏi nơi cư trú tại giai đoạn điều tra do Cơ quan điều tra quyết định nhưng không được quá thời hạn điều tra.
Thời hạn cấm đi khỏi nơi cư trú tại giai đoạn truy tố do Viện kiểm sát quyết định nhưng không được quá thời hạn truy tố.
Thời hạn cấm đi khỏi nơi cư trú tại giai đoạn xét xử do Toà án quyết định nhưng không được quá thời hạn xét xử.
Nếu người bị kết án bị phạt tù thì thời hạn cấm đi khỏi nơi cư trú đối với họ không được quá thời hạn kể từ khi tuyên án cho đến thời điểm người đó đi chấp hành án phạt tù.
6. Thủ tục áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú theo quy định của bộ luật tố tụng hình sự năm 2015
Khi áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, các cơ quan tố tụng phải tuân thủ các trình tự thủ tục sau:
- Bị can, bị cáo phải làm giấy cam đoan thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ theo quy định tại khoản 2 Điều 123 bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 như đã nêu ở mục 2.2.
- Cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng biện pháp này phải có lệnh thể hiện bằng hình thức văn bản. Tuy nhiên, đến nay tòa án nhân dân tối cao vẫn chưa ban hành biểu mẫu về lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú để các Tòa án địa phương áp dụng một cách thống nhất trên cả nước. Cụ thể: Từ Nghị quyết số 04/2004/NQ-HĐTP ngày 05/11/2004 của Hội đồng Thẩm phán tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định trong phần “xét xử sơ thẩm” của bộ luật tố tụng hình sự năm (ban hành kèm theo 12 biểu mẫu), cho đến Nghị quyết số 05/2005/NQ-HĐTP ngày 08/12/2005 của Hội đồng Thẩm phán tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định trong phần thứ tư “xét xử phúc thẩm” của bộ luật tố tụng hình sự năm (ban hành kèm theo 11 biểu mẫu) và nay là Nghị quyết số 05/2017/NQ-HĐTP ngày 19/9/2017 của Hội đồng Thẩm phán tòa án nhân dân tối cao ban hành một số biểu mẫu trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự, xét lại bản án và quyết định đã có hiệu lực pháp luật của bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 (ban hành kèm theo 60 biểu mẫu) đều không có biểu mẫu về lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú.
Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú cần phải có những nội dung cơ bản sau: Ghi rõ căn cứ áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, tên của xã phường, thị trấn nơi bị can, bị cáo đang cư trú, các nghĩa vụ mà bị can, bị cáo phải chấp hành, hậu quả của việc không thực hiện các nghĩa vụ đã cam kết, thời hạn bị cấm đi khỏi nơi cư trú.
- Người ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú phải thông báo về việc áp dụng biện pháp này cho chính quyền xã, phường, thị trấn nơi bị can, bị cáo cư trú, đơn vị quân đội đang quản lý bị can, bị cáo và giao bị can, bị cáo cho chính quyền xã, phường, thị trấn hoặc đơn vị quân đội đó để quản lý, theo dõi họ.
- Trường hợp bị can, bị cáo vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan phải tạm thời đi khỏi nơi cư trú thì phải được sự đồng ý của chính quyền xã, phường, thị trấn nơi người đó cư trú hoặc đơn vị quân đội quản lý họ và phải có giấy cho phép của người đã ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú. Tuy nhiên, quy định tại Điều 4 bộ luật tố tụng hình sưhnăm 2015 không giải thích như thế nào được coi là lý do “bất khả kháng” hay “trở ngại khách quan”. Thế nhưng, trên thực tiễn có thể xảy ra một số tình huống như: (1) Bị can, bị cáo trong thời gian bị cấm đi khỏi nơi cư trú bị tai nạn, bệnh tật,… cần phải chuyển tuyến bệnh viện để điều trị theo ý kiến của bác sĩ; (2) Người thân thích của bị can, bị cáo ở một địa phương khác bị tai nạn, bệnh tật, chết,… trong thời gian họ bị cấm đi khỏi nơi cư trú; (3) Nơi cư trú của bị can, bị cáo gặp phải thiên tai, dịch bệnh,… mà phải tạm thời đi khỏi nơi cư trú theo yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền.
- Trong trường hợp bị can, bị cáo vi phạm nghĩa vụ cam đoan thì chính quyền xã, phường, thị trấn nơi bị can, bị cáo cư trú, đơn vị quân đội đang quản lý bị can, bị cáo phải báo ngay cho cơ quan đã ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú biết để xử lý theo thẩm quyền.
Mọi vướng mắc pháp lý liên quan đến lĩnh vực tố tụng hình sự về biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, Hãy gọi ngay: 1900.6162 để được Luật sư tư vấn pháp luật hình sự trực tuyến qua tổng đài. Đội ngũ luật sư giàu kinh nghiệm trong lĩnh vực hình sự luôn sẵn sàng lắng nghe và giải đáp cụ thể. Trân trọng./.