Ngoài ra, việc pháp luật quy định thời hiệu yêu cầu thi hành án dân sự còn có ý nghĩa bảo đảm cho việc tổ chức thi hành án dân sự được thuận lợi. Pháp luật quy định về thời hiệu yêu cầu thi hành án dân sự thì các đương sự chỉ có quyền yêu cầu thi hành án dân sự trong thời hạn nhất định, hết thời hạn đó họ sẽ không có quyền yêu cầu thi hành án dân sự nữa. Do vậy, sẽ tránh được những trường hợp việc xét xử đã lâu đương sự mới yêu cầu thi hành án dân sự thì sẽ gây khó khăn cho cơ quan thi hành án dân sự, văn phòng thừa phát lại trong việc xác minh tài sản, địa chỉ của người phải thi hành án, tổ chức thi hành án ...

Xuất phát từ yêu cầu của công tác thi hành án dân sự và ý nghĩa quan trọng của thời hiệu yêu cầu thi hành án dân sự, trong các văn bản quy phạm pháp luật thi hành án dân sự được Nhà nước ta ban hành từ năm 1989 đến nay đều có quy định về thời hiệu thi hành án dân sự. Hiện nay, thời hiệu yêu cầu thi hành án dân sự được quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự và Điều 4 Nghị định của Chính phủ số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 đã được sửa đổi, bổ sung theo Nghị định của Chính phủ số 33/2020/NĐ-CP ngày 17/3/2020. Theo các quy định này thì việc tính thời hiệu yêu cầu thi hành án dân sự như sau:

- Người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền yêu cầu trong thời hạn 05 năm, kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật. Trường hợp bàn án, quyết định chưa có hiệu lực pháp luật nhưng được thi hành ngay thì thời hiệu yêu cầu thi hành án dân sự vẫn được tính từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật. Trong trường hợp thời hạn thực hiện thời hiệu thi hành án dân sự trong những trường hợp này đã được quy định tại khoản 3 Điều 30 Luật thi hành án dân sự và khoản 2, khoản 3 Điều 4 Nghị định của Chính phủ số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 đã được sửa đổi, bổ sung theo Nghị định của Chính phủ số 33/2020/NĐ-CP ngày 17/3/2020. Theo các quy định này, sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan thuộc một ứong các trường hợp sau:

- Sự kiện bất khả kháng là trường hợp thiên tai, hỏa hoạn, địch họa;

- Trở ngại khách quan là trường hợp đương sự không nhận được bản án, quyết định mà không phải do lỗi của họ; đương sự đi công tác ở vùng biên giới, hải đảo mà không thể yêu cầu thi hành án đúng hạn; tai nạn, ốm nặng đến mức mất khả năng nhận thức hoặc đương sự chết mà chưa xác định được người thừa kế; tổ chức hợp nhất, sáp nhập, chia, tách, giải thể, chuyển đổi hình thức, chuyển giao bắt buộc, chuyển nhượng toàn bộ cổ phần, phần vốn góp mà chưa xác định được tổ chức, cá nhân mới có quyền yêu cầu thi hành án theo quy định của pháp luật hoặc do lỗi của cơ quan xét xử, cơ quan thi hành án hoặc cơ quan, cá nhân khác dẫn đến việc đương sự không thể yêu cầu thi hành án đúng hạn. Xem điểm a khoản 2 Điều 1 Nghị định của Chính phủ sổ 33/2020/NĐ-CP ngày 17/3/2020 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính phù quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật thi hành án dân sự.

Trường hợp do sự kiện bất khả kháng hoặc xảy ra trở ngại khách quan nên không thể yêu cầu thi hành án dân sự đúng thời hạn thì đương sự có quyền gửi đơn đề nghị thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền thi hành án xem xét chuyển đổi hình thức, chuyển giao bắt buộc, chuyển nhượng toàn bộ cổ phần, phần vốn góp thì phải có văn bản hợp pháp chứng minh thời gian chưa xác định được tổ chức, cá nhân mới có quyền yêu cầu thi hành án (Xem điểm b khoản 2 Điều 1 Nghị định của Chính phủ số 33/2020/NĐ-CP ngày 17/3/2020 sửa đổii, bổ sung một sổ điều của Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật thi hành án dân sự).

- Đối với các trường hợp bất khả kháng, trở ngại khách quan khác nên không thể yêu cầu thi hành án đúng hạn thì phải có xác nhận của cơ quan có thẩm quyền hoặc tài liệu hợp pháp khác để chứng minh.

Xác nhận của tổ chức, cá nhân có thẩm quyền phải thể hiện rõ địa điểm, nội dung và thời gian xảy ra sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan dẫn đến việc đương sự không thể yêu cầu thi hành án đúng hạn.

Khi nhận được đơn của đương sự và các tài liệu kèm theo, thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền ra quyết định thi hành án diàn sự phải xem xét lí do của việc yêu cầu thi hành án dân sự quá hạn. Nếu việc yêu cầu thi hành án quá hạn là do sự kiện bất khả kháng hoặc gặp trở ngại khách quan thì thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự ra quyết định khôi phục thời hiệu yêu cầu thi hành án và thụ lí đơn yêu cầu thi hành án. Trong trường hợp việc yêu cầu thi hành án quá hạn không phải do sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan thì thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự không ra quyết định khôi phục thời hiệu yêu cầu thi hành án và thụ lí đơn yêu cầu thi hành án tài sản cho đương sự; tịch thu sung quỹ nhà nước, tịch thu tiêu huỷ vật chứng, tài sàn ... Do đó, toà án phải chuyển giao cho cơ quan thi hành án dân sự cỏ thẩm quyền những bản án, quyết định này để tổ chức thi hành án. Căn cứ vào Điều 485 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Điều 28 Luật thi hành án dân sự và Điều 51 Luật trọng tài thương mại thì việc chuyển giao bản án, quyết định cho cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền được thực hiện như sau:

- Đối với bản án, quyết định chưa có hiệu lực pháp luật được thi hành ngay thì toà án đã ra bản án, quyết định phải chuyển giao cho cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày ra bản án, quyết định;

- Đối với quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời thì toà án, trọng tài đã ra quyết định phải chuyển giao cho cơ quan Thi hành án dân sự có thẩm quyền ngay sau khỉ ra quyết định;

- Đối với bản án, quyết định khác thì toà án đã ra bản án, quyết định phải chuyển giao cho cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền toong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật.

Trường hợp cơ q[uan có thẩm quyền đã kê biên tài sàn, tạm giữ tài sản, thu giữ vật chứng hoặc thu giữ các tài liệu khác có iên quan đến việc Thi hành án thì khi chuyển giao bản án, quyết ịnh cho cơ quan thi hành án dân sự, toà án phải gửi kèm theo ản sao biền bản về việc kê biên, tạm giữ tài sản, thu giữ vật hứng hoặc tài liệu khác có liên quan.

Theo quy định tại Điều 29 Luật thi hành án dân sự, khi nhận bản án, uyết định do toà án, trọng tài thương mại chuyển giao, cơ uan thi hành án dân sự phải kiểm tra, vào sổ nhận bản án, người phải thi hành án và người có quyên lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc thi hành bản án, quyết định và cơ quan thi hành án dân sự có quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức đã ra bản án, quyết định giải thích những điểm chưa rõ trong bản án, quyết định để thi hành (Xem: Điều 9 Thông tư liên tịch của Bộ tư pháp, Toà án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao số 11/2016/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC Igày 01/8/2016 quy định một sổ vấn đề về thủ tục thi hành án dân sự và phối lợp liên ngành trong Thi hành án dân sự). Việc yêu cầu giải thích bản án, quyết định phải làm thành văn bản gửi cho cơ quan, tổ chức đã ra bản án, quyết định. Nhận được yêu cầu giải thích bản án, quyết định, cơ quan, tổ chức đã ra bản án, quyết định phải có văn bản giải thích những nội dung chưa rõ của bản án, quyết định trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu. Trường hợp vụ việc phức tạp thì thòi hạn trả lời không quá 30 ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu. Văn bản trả lời của toà án là căn cứ để cơ quan thi hành án ra quyết định thi hành án, quyết định thu hồi hoặc sửa đổi, bổ sung quyết định thi hành án đã ban hành.

Tham khảo thêm: 

Mọi vướng mắc pháp lý liên quan đến luật dân sự, luật thi hành án dân sự về thời hiệu yêu cầu thi hành án dân sự. Hãy gọi ngay: 1900.6162 để được Luật sư tư vấn pháp luật dân sự trực tuyến. Đội ngũ luật sư luôn sẵn sàng lắng nghe và giải đáp mọi vướng mắc của Bạn. Trân trọng./.