Căn cứ pháp lý:

- Luật Công vụ viên (ngày 01/01/2006) của CHND Trung Hoa

- Luật này Công vụ viên sửa đổi (01/6/2019) của CHND Trung Hoa

Công vụ viên là đội ngũ nhân lực công ở Trung Quốc, lực lượng quan trọng trong hệ thống quản trị quốc gia. Trong những năm gần đây, chế độ, chính sách đối với đội ngũ nhân lực công ở Trung Quốc luôn được quan tâm đổi mới, cải cách. Qua việc nghiên cứu kinh nghiệm phát triển nhân lực công ở Trung Quốc có thể rút ra một số gợi mở đối với Việt Nam trong xây dựng và phát triển nguồn nhân lực hành chính nhà nước.

1. Khái quát về đội ngũ công vụ viên và chế độ công vụ viên của Trung Quốc 

Tại Trung Quốc, công vụ viên là những nhân viên thực hiện công vụ theo pháp luật,  trong biên chế hành chính nhà nước, được nhà nước chi trả tiền lương và phúc lợi. Công vụ viên là lực lượng nòng cốt trong bộ máy hành chính nhà nước. Ở Trung Quốc, đa số công vụ viên là đảng viên Đảng Cộng sản, giữ vai trò cầu nối giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân. 

Việc xây dựng chế độ công vụ viên của Trung Quốc đã trải qua nhiều giai đoạn xây dựng và phát triển, gắn với tiến trình cải cách mở cửa từ năm 1978 đến nay. Về tổng thể, đội ngũ nhân lực công từng bước được nâng cao về chất lượng, cơ chế quản lý không ngừng được hoàn thiện, đời sống công vụ viên ngày càng được quan tâm hơn. Ngoài ra, phương thức thi tuyển ngày càng được siết chặt theo hướng đặt ra các yêu cầu cao hơn nhằm bảo đảm chất lượng công vụ viên ngay từ đầu vào. 

Trong pháp luật hiện hành của Trung Quốc, Luật Công vụ viên là bộ luật cơ bản trong quản lý cán bộ, là căn cứ cơ bản trong quản lý công vụ viên, nhân sự trong các cơ quan Đảng, chính quyền, phản ánh yêu cầu và quy luật cơ bản của việc quản lý nhân sự trong các cơ quan, mang đậm nét đặc sắc Trung Quốc.

Năm 1993, Trung Quốc đã ban hành “Điều lệ tạm thời đối với công vụ viên nhà nước”; đến năm 2005 đã xây dựng và ban hành Luật Công vụ viên (có hiệu lực từ ngày 01/01/2006). Năm 2018, Trung Quốc tiến hành sửa đổi Luật này (được ban hành ngày 01/6/2019). Nguyên tắc chung của Luật Công vụ viên sửa đổi là kiên trì “Đảng quản cán bộ”, đồng thời thể hiện tư duy mới “tuyển chọn người ưu tú, quản lý nghiêm ngặt…” trong quản lý công vụ viên của Trung Quốc. 

2. Phân loại công vụ viên

Mục tiêu căn bản của việc phân loại chức vụ của công vụ viên là để nâng cao trình độ quản lý một cách khoa học.

Từ khi Luật Công vụ viên được thực hiện đến nay, nhằm nâng cao tính khoa học và tương ứng trong quản lý công vụ viên theo các chức vụ khác nhau, Trung Quốc đã áp dụng các cách thức quản lý đối với các nhóm công vụ viên khác nhau. Luật Công vụ viên xác định rõ nội dung quản lý phân loại tại 4 khâu:

Thứ nhất, phân loại chức vụ. Điều 15 Luật Công vụ viên quy định: Nhà nước căn cứ theo loại hình chức vụ của công vụ viên để sắp xếp thứ tự chức vụ công vụ viên. 

Thứ hai, phân loại nội dung thi tuyển. Điều 28 Luật Công vụ viên quy định: thi tuyển công vụ viên sử dụng hình thức thi viết và thi nói, nội dung thi căn cứ vào năng lực cơ bản mà công vụ viên cần có và phân loại theo các chức vụ khác nhau. 

Thứ ba, phân loại để đào tạo. Điều 60 Luật Công vụ viên quy định: cơ quan đào tạo phân loại, phân cấp đối với công vụ viên. Điều 61 quy định: với toàn thể công vụ viên cần tiến hành cập nhật kiến thức, tăng cường đào tạo “tại chức” nhằm nâng cao năng lực công tác, trong đó đối với công vụ viên đảm nhận các chức vụ kỹ thuật chuyên nghiệp cần đáp ứng yêu cầu thường xuyên đào tạo kỹ thuật chuyên nghiệp. 

Thứ tư, phân loại chế độ tiền lương. Điều 73 Luật Công vụ viên quy định: công vụ viên thực hiện chế độ tiền lương kết hợp giữa chức vụ và cấp bậc.

Ví dụ, đối với nhóm ngành tòa án và kiểm sát, tháng 9/2015 Trung Quốc đã thông qua “Phương án thí điểm cải cách thứ tự chức vụ đối với nhân viên ngành tòa án và kiểm sát”, và “Phương án thí điểm cải cách chế độ tiền lương đối với nhân viên ngành tòa án và kiểm sát”. Theo đó, cấp bậc chức vụ trong ngành tòa án và kiểm sát lấy cơ sở là 12 cấp bậc thuộc 04 ngạch đã được quy định trong Luật tổ chức Tòa án nhân dân và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, hoàn toàn tách biệt với các cấp bậc hành chính khác. Về chế độ tiền lương, mức lương của hai ngành tòa án và kiểm sát được xác định theo công thức: lương cơ bản + phụ cấp + thưởng hiệu suất.

3. Việc sắp xếp thứ tự chức vụ

Thăng tiến về chức vụ có tiền đề là việc sắp xếp thứ tự chức vụ. Điều 15 Luật Công vụ viên quy định: Nhà nước căn cứ vào loại hình chức vụ công vụ viên để sắp xếp thứ tự chức vụ công vụ viên. Khoản 1, Điều 16 Luật Công vụ viên quy định: chức vụ công vụ viên được chia thành chức vụ lãnh đạo và chức vụ không phải lãnh đạo, thứ tự chức vụ không phải lãnh đạo được sắp xếp tại các cấp cục, vụ trở xuống. Theo Luật Công vụ viên và theo thực tế triển khai, thứ tự chức vụ lãnh đạo được sắp xếp là thống nhất, thứ tự chức vụ được xác định rõ. Thứ tự chức vụ không phải lãnh đạo trong các nhóm ngành cũng thể hiện đặc điểm của nhóm ngành, thể hiện ở thứ tự chức vụ và cách gọi khác nhau. Theo quy định của Luật Công vụ viên, chức vụ không phải lãnh đạo của công vụ viên thuộc nhóm quản lý tổng hợp được chia thành 8 thứ bậc, bao gồm: thanh tra, phó thanh tra, điều tra viên, phó điều tra viên, chủ nhiệm, phó chủ nhiệm, chuyên viên và nhân viên hợp đồng. Các quy định liên quan cũng xác định 11 thứ bậc chức vụ đối với công vụ viên nhóm ngành kỹ thuật chuyên nghiệp và 11 thứ bậc chức vụ đối với công vụ viên nhóm chấp pháp hành chính.

Cấp bậc phản ánh tiêu chí tổng hợp về chức vụ, năng lực, thành tích, kinh nghiệm, tổng hòa được các nhân tố chức vụ và thứ bậc. Chức năng chủ yếu của cấp bậc được thể hiện trong hai khía cạnh: xác định căn cứ tiền lương và các đãi ngộ khác; cân bằng các tiêu chí thống nhất trong tương quan so sánh các thứ bậc chức vụ của công vụ viên thuộc các nhóm ngành khác nhau.

4. Cơ chế tuyển dụng công vụ viên

Thứ nhất, một trong những động lực của cơ chế đổi mới công vụ viên là nâng cao tính khoa học của việc thi tuyển, tăng cường mức độ phù hợp giữa con người và vị trí việc làm, tăng cường thi tuyển phân cấp phân loại. 

Thi tuyển công khai là sự thể hiện tính công bằng, liêm chính của xã hội, được đông đảo người dân đồng tình ủng hộ. Trong thực tế, các cơ quan nhà nước cấp trung ương công khai tuyển dụng công vụ viên trong toàn xã hội, các tỉnh triển khai thi tuyển liên thông bốn cấp(8) là cách thức chủ yếu trong việc tuyển dụng bổ sung nhân lực. Năm 1993, từ khi thực hiện “Điều lệ tạm thời về công vụ viên nhà nước” đến nay, tính công bằng của chế độ thi tuyển đã được đông đảo người dân và xã hội thừa nhận. Hiện nay, việc ra đề thi tuyển đang trở thành vấn đề cấp bách đối với việc nâng cao tính khoa học của thi tuyển công chức. Đối với viên chức cơ sở và nhân tài thuộc một số ngành nghề, chức vụ đặc thù (như bí thư chi bộ thôn; sinh viên làm cán bộ thôn; sinh viên tốt nghiệp làm các công tác hỗ trợ nông nghiệp, giáo dục, y tế và công tác xóa đói), các địa phương đã áp dụng một số phương thức thi tuyển đặc thù và thu được khá nhiều kinh nghiệm. Trên cơ sở tổng kết những kinh nghiệm thành công ở Trung ương và địa phương, Điều 29 “Điều lệ sửa đổi” quy định: thi tuyển công vụ viên sử dụng hình thức thi viết và thi nói, nội dung thi tuyển được xây dựng dựa trên những năng lực cơ bản mà công vụ viên cần có, và được sắp xếp theo các nhóm chức vụ, cơ quan các cấp khác nhau.

 “Cương yếu quy hoạch về việc đi sâu cải cách chế độ nhân sự giai đoạn 2010 - 2020” của Trung Quốc yêu cầu: đến năm 2012, các cơ quan Trung ương và cơ quan lãnh đạo Đảng và Chính phủ cấp tỉnh trở lên khi tuyển dụng công vụ viên, trừ một số chức vụ đặc thù, đều phải tuyển dụng những nhân viên có hơn 02 năm kinh nghiệm công tác ở cơ sở. Có ý kiến cho rằng, yêu cầu này đã khiến nhiều cơ quan không tuyển dụng được những sinh viên xuất sắc vừa tốt nghiệp. Vì vậy, “Điều lệ sửa đổi”  không còn coi yêu cầu trên là điều kiện bắt buộc. Từ năm 2012 đến nay, các cơ quan Đảng, Chính phủ và các doanh nghiệp đều đưa ra các chiến lược thu hút nhân tài. “Điều lệ sửa đổi” đã đưa những nhân viên thuộc ngạch công vụ trong các trường đại học, viện nghiên cứu và các đơn vị sự nghiệp khác vào phạm vi pháp định của đối tượng ứng tuyển và điều động mới; ngoài chế độ bầu chọn, chế độ ủy nhiệm, còn coi chế độ tuyển dụng là hình thức mới trong lựa chọn chức vụ lãnh đạo, thể hiện mong muốn thu hút nhân tài, khai thác nhân tài công vụ viên của bản “Điều lệ sửa đổi”.

Thứ hai, Vấn đề khó khăn trong tuyển dụng và giữ chân nhân lực ở cơ sở. 

Với những tỉnh, thành phố có điều kiện kinh tế kém phát triển, vấn đề tuyển dụng và giữ chân người có năng lực rất khó khăn. Đối với những tỉnh, thành phố có điều kiện kinh tế phát triển, việc tuyển dụng được những nhân tài chuyên nghiệp đáp ứng cho những lĩnh vực đang có nhu cầu cũng không dễ dàng. Để khắc phục tình trạng này, năm 2014, Bộ Nguồn nhân lực và An sinh xã hội đã ban hành “Ý kiến về việc làm tốt công tác thi tuyển công vụ viên ở cơ sở tại vùng sâu, vùng xa”, trong đó đưa ra một số biện pháp nhằm giải quyết vấn đề khó khăn trong tuyển dụng nhân lực ở cơ sở. Ví dụ, tại thành phố Trùng Khánh mỗi năm đều tổ chức hai lần tuyển chọn công khai đối với các cơ quan cấp thành phố, tổng cộng đã tuyển chọn được 2.655 vị trí; chỉ đạo các cơ quan cấp huyện triển khai 296 lần tuyển chọn công khai, tuyển chọn được 3.800 vị trí; kết quả này được công vụ viên cấp cơ sở đánh giá cao. “Điều lệ sửa đổi” đã coi việc cơ quan cấp trên chú trọng tuyển dụng công khai công vụ viên từ các cơ quan cơ sở là sự ràng buộc “cứng”, điều này có ý nghĩa vô cùng quan trọng.

5. Cơ chế bảo đảm; thưởng, phạt đối với công vụ viên

Luật Công vụ viên thiết kế chế độ về quản lý 04 khía cạnh bao gồm: kiểm tra đánh giá; thăng chức; khen thưởng; bảo đảm phúc lợi tiền lương, thì thăng chức là cơ chế phát huy hiệu quả khích lệ cao nhất, sau đó đến khen thưởng và kiểm tra đánh giá; còn cơ chế bảo đảm phúc lợi tiền lương có chức năng bảo đảm lớn nhất. Tuy nhiên, sau một số năm thực hiện Luật Công vụ viên, thực tế cho thấy mức độ kiểm tra đánh giá chưa đủ, việc thăng chức có nhiều rào cản, mức độ khen thưởng chưa đủ sức hấp dẫn, thiếu khen thưởng kịp thời, mức tiền lương về tổng thể còn thấp, tiền lương của công vụ viên giữa các khu vực khác nhau còn có sự chênh lệch đáng kể. Theo “Điều lệ sửa đổi”, nâng cao tác dụng khuyến khích của pháp luật phải tiến hành song song với thăng chức và thăng cấp, đặc biệt là thăng cấp. Hiện nay, trong hơn 7 triệu công vụ viên, chỉ có 8% là có chức vụ cấp phó sở trở lên. Do đó, thăng cấp trở thành chế độ đơn giản mà hiệu quả trong việc khích lệ đội ngũ công vụ viên, cũng là sự phát triển về nghề nghiệp mà đông đảo công vụ viên hướng tới.

Đáng lưu ý là, Luật Công vụ viên quy định chức vụ và cấp bậc là cơ sở xác định tiền lương và các đãi ngộ khác đối với công vụ viên. Trong quá trình thực hiện Luật Công vụ viên, cấp bậc chỉ liên quan đến phụ cấp cấp bậc, chứ không liên quan đến các đãi ngộ kinh tế khác, do đó, công vụ viên không cảm nhận được tác dụng khích lệ của việc thăng cấp. Khoản 3 Điều 20 “Điều lệ sửa đổi” quy định: chức vụ, chức vị và cấp bậc lãnh đạo của công vụ viên là cơ sở xác định tiền lương và các đãi ngộ khác đối với công vụ viên. Do đó, cần có phương thức để phát huy hiệu quả của cấp bậc, thăng cấp cần gắn với những đãi ngộ nào, ở mức độ nào là điều quan trọng để thực hiện chức năng khích lệ của việc thăng cấp.  

6. Cơ chế giám sát đối với công vụ viên

Từ Đại hội lần thứ XVIII Đảng Cộng sản Trung Quốc đến nay, một loạt các biện pháp như quản lý Đảng nghiêm minh, quản lý quyền lực nghiêm minh, đặc biệt là “Điều lệ xử lý kỷ luật của Đảng Cộng sản Trung Quốc” mới được sửa đổi và có hiệu lực từ ngày 10/01/2016, hay “Luật Giám sát nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa” có hiệu lực từ ngày 20/3/2018… đã đưa ra các quy định mới, xác định nội dung điều chỉnh trong cơ chế giám sát hiện nay của Trung Quốc - công vụ viên chịu sự giám sát của hệ thống giám sát và Luật Giám sát.

Ngoài ra, để hỗ trợ cho việc thực hiện Luật Công vụ viên, Ban Tổ chức Trung ương đã ban hành 04 quy định, bao gồm: “Quy định phạm vi công vụ viên”, “Biện pháp xét duyệt đơn vị quản lý theo “Luật Công vụ viên nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa’”, “Biện pháp quản lý chức vụ, chức vị và cấp bậc của công vụ viên” và “Biện pháp đăng ký công vụ viên”. Những quy định này được ban hành sau khi Trung ương công bố “Quy định đồng thời về chức vụ và cấp bậc công vụ viên” vào tháng 3/2019 kèm theo “Luật Công vụ viên nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa sửa đổi”, là sự bảo đảm về chế độ cho việc xây dựng một đội ngũ công vụ viên chuyên nghiệp, có tố chất cao và phẩm chất tốt.