1. Tỷ lệ vốn góp tối đa của nhà đầu tư nước ngoài đối với dịch vụ xếp dỡ container thuộc các dịch vụ hỗ trợ mọi phương thức vận tải, trừ dịch vụ cung cấp tại các sân bay

Theo Điều 4 của Nghị định 163/2017/NĐ-CP, các thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics, theo quy định tại Điều 3 của Nghị định 163/2017/NĐ-CP, phải tuân thủ một loạt điều kiện đầu tư và kinh doanh được quy định bởi pháp luật liên quan đến dịch vụ mà họ cung cấp.

Trong trường hợp thương nhân sử dụng các phương tiện điện tử kết nối mạng Internet, mạng viễn thông di động hoặc các mạng mở khác để thực hiện một phần hoặc toàn bộ hoạt động kinh doanh logistics của mình, ngoài việc phải tuân thủ các quy định về dịch vụ cụ thể theo Điều 3 của Nghị định 163/2017/NĐ-CP, họ còn phải tuân thủ các quy định về thương mại điện tử.

Trong trường hợp thương nhân là nhà đầu tư nước ngoài và kinh doanh dịch vụ logistics tại Việt Nam, họ cần tuân thủ các điều kiện sau đây:

1. Trường hợp kinh doanh dịch vụ vận tải hàng hóa thuộc dịch vụ vận tải biển (trừ vận tải nội địa), nhà đầu tư nước ngoài có thể thành lập công ty vận hành đội tàu treo cờ Việt Nam hoặc góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp trong doanh nghiệp, với tỷ lệ vốn góp không quá 49%. Tổng số thuyền viên nước ngoài làm việc trên các tàu treo cờ Việt Nam không quá 1/3 định biên của tàu, và thuyền trưởng hoặc thuyền phó thứ nhất phải là công dân Việt Nam.

2. Công ty vận tải biển nước ngoài có thể thành lập doanh nghiệp hoặc góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp trong doanh nghiệp.

3. Trong trường hợp kinh doanh dịch vụ xếp dỡ container thuộc các dịch vụ hỗ trợ vận tải biển, nhà đầu tư nước ngoài có thể góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp trong doanh nghiệp, với tỷ lệ vốn góp không quá 50%. Họ cũng được phép thành lập hiện diện thương mại tại Việt Nam dưới hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh.

4. Trường hợp kinh doanh dịch vụ xếp dỡ container thuộc các dịch vụ hỗ trợ mọi phương thức vận tải (trừ dịch vụ cung cấp tại các sân bay), nhà đầu tư nước ngoài có thể góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp trong doanh nghiệp, với tỷ lệ vốn góp không quá 50%.

5. Trường hợp kinh doanh dịch vụ thông quan thuộc dịch vụ hỗ trợ vận tải biển, nhà đầu tư nước ngoài có thể góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp trong doanh nghiệp, bao gồm cả vốn góp của nhà đầu tư trong nước.

6. Trường hợp kinh doanh các dịch vụ khác, như kiểm tra vận đơn, dịch vụ môi giới vận tải hàng hóa, kiểm định hàng hóa, dịch vụ lấy mẫu và xác định trọng lượng, nhà đầu tư nước ngoài có thể góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp trong doanh nghiệp, bao gồm cả vốn góp của nhà đầu tư trong nước.

7. Trường hợp kinh doanh dịch vụ vận tải hàng hóa thuộc dịch vụ vận tải đường thủy nội địa hoặc đường sắt, nhà đầu tư nước ngoài có thể góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp trong doanh nghiệp, với tỷ lệ vốn góp không quá 49%.

8. Trường hợp kinh doanh dịch vụ vận tải hàng hóa thuộc dịch vụ vận tải đường bộ, nhà đầu tư nước ngoài có thể hợp tác kinh doanh thông qua hợp đồng hoặc góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp trong doanh nghiệp, với tỷ lệ vốn góp không quá 51%. 100% lái xe của doanh nghiệp phải là công dân Việt Nam.

9. Trường hợp kinh doanh dịch vụ vận tải hàng không, nhà đầu tư nước ngoài cần tuân thủ quy định của pháp luật về hàng không.

10. Trường hợp kinh doanh dịch vụ phân tích và kiểm định kỹ thuật, nhà đầutư nước ngoài không được kinh doanh dịch vụ kiểm định và cấp giấy chứng nhận cho các phương tiện vận tải. Việc thực hiện dịch vụ này có thể bị hạn chế hoạt động tại các khu vực địa lý được cơ quan có thẩm quyền xác định vì lý do an ninh quốc phòng.

Theo đó, tỷ lệ vốn góp tối đa của nhà đầu tư nước ngoài đối với dịch vụ xếp dỡ container thuộc các dịch vụ hỗ trợ mọi phương thức vận tải, trừ dịch vụ cung cấp tại các sân bay là không quá 50%

2. Thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics có quyền và nghĩa vụ như thế nào?

Quyền và nghĩa vụ của thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics theo Điều 235 Luật Thương mại 2005 được xác định rõ như sau:

Trừ khi có thỏa thuận khác, thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics có những quyền và nghĩa vụ sau đây:

- Hưởng thù lao dịch vụ và các chi phí hợp lý khác: Thương nhân logistics được quyền đòi hỏi thù lao và các chi phí phát sinh liên quan đến việc cung cấp dịch vụ logistics, miễn là chúng là hợp lý và đã được thỏa thuận trước đó.

- Thực hiện khác với chỉ dẫn của khách hàng khi cần thiết: Trong quá trình thực hiện hợp đồng, nếu có lý do chính đáng và có lợi ích của khách hàng, thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics có quyền thực hiện các biện pháp khác với chỉ dẫn ban đầu của khách hàng. Tuy nhiên, họ phải thông báo ngay cho khách hàng về những thay đổi này.

- Thông báo khi không thực hiện được chỉ dẫn của khách hàng: Khi có khả năng xảy ra tình huống dẫn đến việc không thể thực hiện một phần hoặc toàn bộ các chỉ dẫn từ khách hàng, thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics cần đặt sự thông báo và tương tác với khách hàng lên hàng đầu. Việc này đảm bảo tính linh hoạt và hiệu quả trong quá trình quản lý và thực hiện dự án hoặc giao dịch logistics. Trong tình huống như vậy, thương nhân logistics phải tự mình xác định các rủi ro và hậu quả có thể xảy ra do không tuân thủ chỉ dẫn ban đầu của khách hàng. Sau đó, họ cần liên hệ với khách hàng một cách nhanh chóng để thông báo về tình huống và yêu cầu hướng dẫn mới. Điều này giúp tạo ra một sự hiểu biết chung giữa hai bên và cho phép điều chỉnh kế hoạch hoặc biện pháp thích hợp nhằm giải quyết tình huống hiện tại.

Sự thông báo và tương tác đúng lúc giữa thương nhân logistics và khách hàng không chỉ giúp giảm thiểu rủi ro mà còn đảm bảo tính chuyên nghiệp và hiệu quả trong lĩnh vực dịch vụ logistics. Điều này làm tăng cơ hội cho sự hợp tác và sự hài lòng của cả hai bên trong quá trình kinh doanh.

- Thực hiện nghĩa vụ trong thời hạn hợp lý: Trong tình huống mà không có thoả thuận cụ thể về thời hạn thực hiện nghĩa vụ đối với khách hàng, các thương nhân logistics cần tuân theo một quy tắc thời gian hợp lý. Điều này dựa trên bản chất của dịch vụ và thỏa thuận chung đã được thiết lập trước đó giữa các bên liên quan.

Thương nhân logistics phải đảm bảo rằng thời gian thực hiện nghĩa vụ của họ phù hợp với yêu cầu và đáp ứng được mong đợi của khách hàng. Việc xác định thời hạn này thường dựa trên tính phức tạp của dự án hoặc giao dịch cụ thể, cũng như sự thỏa thuận trước đó giữa hai bên. Điều này đảm bảo tính minh bạch và công bằng trong quá trình làm việc, đồng thời giúp bảo vệ quyền lợi cả của thương nhân logistics và khách hàng.

Khi thực hiện việc vận chuyển hàng hóa, thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics cũng phải tuân thủ tất cả các quy định của pháp luật và tập quán vận tải để đảm bảo an toàn và hiệu quả trong quá trình vận chuyển. Điều này bao gồm việc tuân thủ quy định về an toàn hàng hóa, quyền và nghĩa vụ của các bên liên quan, và mọi quy định khác liên quan đến việc vận chuyển hàng hóa.

3. Nhà đàu tư nước ngoài có được lựa chọn áp dụng quy định của các điều ước quốc tế về điều kiện kinh doanh dịch vụ logistics hay không?

Theo Điều 4, Khoản 4 của Nghị định 163/2017/NĐ-CP, quy định về điều kiện kinh doanh dịch vụ logistics đề cập đến việc áp dụng các điều kiện tương ứng cho nhà đầu tư nước ngoài. Trong trường hợp nhà đầu tư nước ngoài thuộc đối tượng áp dụng của các điều ước quốc tế và các thỏa thuận quốc tế khác có quy định khác nhau về điều kiện kinh doanh dịch vụ logistics, nhà đầu tư này được ưu tiên lựa chọn áp dụng điều kiện đầu tư quy định tại một trong các điều ước đó.

Sự linh hoạt trong quản lý và áp dụng các quy định đối với nhà đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực dịch vụ logistics đã tạo ra một bước tiến quan trọng đối với nền kinh tế Việt Nam. Những quyền tự chọn điều kiện kinh doanh phù hợp nhất với nhu cầu và tình hình cụ thể của họ đã giúp các nhà đầu tư nước ngoài tham gia vào thị trường này một cách dễ dàng hơn, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển bền vững của ngành logistics.

Các thỏa thuận quốc tế đã định rõ những điều kiện cụ thể mà nhà đầu tư nước ngoài cần tuân theo, giúp họ có cái nhìn rõ ràng về cơ hội và rủi ro trong quá trình kinh doanh tại Việt Nam. Sự đặt niềm tin vào hệ thống pháp luật và cam kết quốc tế đã thúc đẩy sự hợp tác quốc tế trong lĩnh vực logistics, mang lại lợi ích lớn cho cả quốc gia và các nhà đầu tư.

Như vậy, việc tạo điều kiện thuận lợi cho nhà đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực dịch vụ logistics không chỉ giúp nâng cao chất lượng và hiệu suất của họ mà còn thúc đẩy sự phát triển toàn diện của nền kinh tế Việt Nam trong thời kỳ toàn cầu hóa.

Bài viết liên quan: Hợp đồng dịch vụ Logistics là gì? Một số vấn đề lý luận về hợp đồng dịch vụ Logistics ở Việt Nam. Khi có thắc mắc về quy định pháp luật, hãy liên hệ hotline 19006162 hoặc qua email: lienhe@luatminhkhue.vn