1. Vị trí, vai trò của Nguyên thủ quốc gia:

Ở các nứớc quân chủ lập hiến như Thụy Điển, Nhật Bản, Tây Ban Nha, Bỉ, Thái Lan, Anh, Nguyên thủ quốc gia là Vua (Hoàng đế, quốc trưởng) là người giữ chức vụ này theo nguyên tắc truyền kế. Ở những nước này nhà vua tượng trưng cho sự tồn tại vĩnh cửu của một dân tộc, một dòng dõi quý tộc cao quý, sự thống nhất, sự đoàn kết của dân tộc. Tuy là người đứng đầu Nhà nước nhưng quyền hạn của nhà vua không đáng kể; nhà vua bị hạn chế quyền lực trên cả ba phương diện lập pháp, hành pháp và tư pháp. Vua chỉ thực hiện chức năng lễ tân và ngoại giao như tiếp nhận các đại sứ nước ngoài, bổ nhiệm, bãi nhiệm đại sứ của Nhà nước mình ra nước ngoài, phong tặng các danh hiệu cao quý.

Ở những nước Cộng hòa Tổng thông như Hoa Kỳ, Mêhicô, Venezuela, Colombia thì quyền lực của Tổng thống rất lớn. Tổng thống vừa là người đứng đầu Nhà nước vừa là người đứng đầu Chính phủ, người nắm toàn bộ quyền hành pháp trong tay mình.

Ở những nước Cộng hòa Nghị viện như Italia, Liên bang Đức, Áo, Thụy Sĩ, úc, Alien, Aixơlen, Canada, An Độ quyền hạn của Tổng thôhg không lớn lắm. Tổng thống chỉ là người đứng đầu Nhà nước chứ không đứng đầu Chính phủ. Ở những nước này Vị trí của Tổng thống là biểu tượng của sự thống nhất quốc gia, sự điều hòa chức năng của các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp.

Ở các nước Cộng hòa Lưỡng tính chế định Tổng thống là sự pha trộn, sự kết hợp giữa thể chế Cộng hòa Tổng thống và Cộng hòa Nghị viện. Ở Pháp Tổng thống do cử tri trực tiếp bầu ra do đó có thể hoạt động độc lập không phụ thuộc vào Nghị viện. Nhưng tổng thống Pháp chỉ đứng đầu Nhà nước chứ không đứng đầu Chính phủ. Tổng thống có quyền thành lập chính phủ nhưng phải lựa chọn các thành viên của Chính phủ và Thủ tướng từ các thành viên thuộc Đảng chiếm đa số ghế trong Nghị viện. Chính phủ Pháp vừa chịu trách nhiệm trước Tổng thống vừa chịu trách nhiệm trước Nghị viện. Tổng thống theo quy định tại Điều 5 Hiến pháp năm 1958 - Hiến pháp hiện hành của Pháp là người bảo vệ sự tôn trọng Hiến pháp, là người bằng vai trò trọng tài của mình đảm bảo sự điều hòa hoạt động của các hệ thống cơ quan Nhà nước: lập pháp, hành pháp và tư pháp.

 

2. Một số quyền hạn của Nguyên thủ quốc gia:

2.1 Quyền hạn của Nguyên thủ quốc gia có thể phân chia thành các loại sau đây:

  • Quyền hạn trong việc thực hiện chức nãng đại diện;
  • Quyền hạn trong lĩnh vực quản lý Nhà nước;
  • Quyền hạn trong lĩnh vực lập pháp;
  • Quyền hạn trong lĩnh vực đối ngoại;
  • Quyền hạn trong lĩnh vực tư pháp;
  • Quyền hạn đặc biệt.

 

2.2 Quyền hạn thực hiện chức năng đại diện

Bởi Nguyên thủ quốc gia là người đứng đầu Nhà nước là người thay mặt quốc gia về mặt đối nội cũng như đối ngoại vì vậy chức năng chủ yếu của Nguyên thủ quốc gia là chức năng đại diện, về điều này Điều 59 của Hiến pháp cộng hòa Liên Bang Đức năm 1959 đã quy định: “Tổng thống liên bang đại diện Liên bang trong các quan hệ quốc tế và nhân danh Liên bang ký kết các điều ước quốc tế với nước ngoài” Điều 1 của Hiến pháp Nhật Bản cũng quy định: “Hoàng đế tiêu biểu quốc gia và sự thống nhất của dân tộc, chức vụ Hoàng đế xuất phát do ý chí của dân tộc có chủ quyền”. Tại Điều 3 Hiến pháp Nhật xác định thẩm quyền của Hoàng đế với những giới hạn nhất định: “Mọi hành vi của Hoàng đế trong lĩnh vực đại diện quốc gia phải có sự tham khảo ý kiến và chấp thuận của Nội các. Nội các chịu trách nhiệm về hành vi trên”.

Thực hiện chức năng đại diện của quốc gia, Nguyên thủ quốc gia tiếp nhận các đại sứ nước ngoài và bổ nhiệm các đại sứ của Nhà nước mình ra nước ngoài. Nguyên thủ quốc gia thay mặt quốc gia ký kết các điều ước quốc tế. Đại diện quốc gia, người đứng đầu Nhà nước phát biểu quan điểm của quốc gia mình ở Liên hợp quốc và các hội nghị quốc tế. Thay mặt quốc gia Hoàng đế (hoặc Tổng thống) chủ tọa các nghi lễ trọng thể, gửi các lời kêu gọi, hiệu triệu với nhân dân trong những tình trạng đất nước lâm nguy. Là người đại diện của mỗi quốc gia, nghi lễ tiếp đón các Nguyên thủ quốc gia bao giờ cũng là nghi lễ long trọng nhất.

 

2.3 Quyền hạn của Nguyên thủ quốc gia trong lĩnh vực quản lý Nhà nước

Nguyên thủ quốc gia đóng vai trò quan trọng trong việc thành lập chính phủ, song mức độ ảnh hưởng của Nguyên thủ quốc gia đối với đường lối chính trị của Chính phủ và quyền hạn của Nguyên thủ quốc gia trong lĩnh vực quản lý Nhà nước rất khác nhau ở những hình thức chính thể khác nhau. Ở những nước Cộng hòa Nghị viện và một số nước quân chủ Nghị viện Nguyên thủ quốc gia không thể lựa chọn các thành viên của Chính phủ theo ý muốn của mình mà phải bổ nhiệm vào chính phủ các thành viên thuộc Đảng chiếm đa số ghế trong Nghị viện. Theo quy định của Hiến pháp hoặc theo tiền lệ, từ trước đến nay chức vụ Thủ tướng Chính phủ luôn luôn thuộc về lãnh tụ của Đảng chiếm đa số ghế trong Nghị viện. Ví dụ, ở nước Anh chức vụ Thủ tướng Chính phủ luôn luôn thuộc về thủ lĩnh Đảng bảo thủ hoặc Công đảng là những đảng có khả năng chiếm đa số ghế trong Hạ nghị viện Anh. Chỉ trong trường hợp không có đảng nào chiếm đa số ghế trong Nghị viện hoặc có đảng chiếm đa số ghế trong Nghị viện nhưng không có người nào được thừa nhận là người có uy tín trong đảng thì khi đó vai trò Nguyên thủ quốc gia mới được thể hiện rõ.

Ở những nước Cộng hòa Tổng thống nơi mà Tổng thống vừa là người đứng đầu Nhà nước vừa là người đứng đầu Chính phủ thì Tổng thống là người đứng đầu cơ quan hành pháp và có quyền hạn trong lĩnh vực quản lý Nhà nước rất rộng. Các thành viên của Chính phủ được coi là những người giúp việc và cố vấn cho Tổng thống. Tổng thống có toàn quyền bổ nhiệm và bãi nhiệm các thành viên của Chính phủ. Mặc dù việc bổ nhiệm các thành viên của Chính phủ được tiến hành “theo lời khuyên và được sự đồng ý của Thượng nghị viện" và phải nhận được từ 2/3 trở lên số phiếu thuận của Thượng Nghị viện song trên thực tế rất ít khi Thượng nghị viện không đồng ý với Tổng thống. Nguyên tắc phải chọn các thành viên của Chính phủ từ những người thuộc đảng chiếm đa số ghế trong Nghị viện không được áp dụng trong thể chế Cộng hòa Tổng thống, ở đây, Tổng thống cũng có thể thuộc về một đảng không chiếm đa số ghế trong Nghị viện. Với thể chế Cộng hòa Tổng thống, Tổng thống có vai trò quyết định trong việc định ra chương trình hoạt động của Chính phủ, lãnh đạo bộ máy hành chính, lực lượng vũ trang, bổ nhiệm các chức vụ quan trọng nhất trong bộ máy quân sự và hành chính.

 

3. Nguyên thủ Quốc gia của Vương quốc Anh:

Nữ hoàng là người đứng đầu nhà nước, là biểu tượng của sự thống nhất dân tộc. Nữ hoàng theo quy định của luật là người đứng đầu chính quyền hành pháp, tư pháp và là một trong ba yếu tố cấu thành cơ quan lập pháp - Nghị viện; là Tổng tư lệnh tối cao của các lực lượng vũ trang; Thống đốc tối cao của quốc giáo của Liên hiệp Vương quốc. Nữ hoàng bổ nhiệm, miễn nhiệm Thủ tướng và theo đề nghị của Thủ tướng bổ nhiệm, miễn nhiệm các thành viên khác của Chính phủ. Nữ hoàng khai mạc, bế mạc các Kỳ họp của Nghị viện và có quyền giải tán Hạ viện. Nữ hoàng có thể ký kết các Điều ước quốc tế, tuyên bố chiến tranh và hoà bình, phong hàm cấp tướng, bổ nhiệm các thẩm phán và các quan chức cao cấp trong bộ máy nhà nước, bổ nhiệm các đại sứ và cán bộ ngoại giao cấp cao của Vương quốc Anh ra nước ngoài và các tổ chức quốc tế, tiếp đón các đại sứ và các nhà ngoại giao nước ngoài.

Mặc dù theo quy định của các luật quan trọng được coi là Hiến pháp của Anh quốc quyền lực của Vua rất rộng, tuy nhiên “Vua trị vì mà không cai trị” vì Vua chỉ thực hiện các chức năng của mình một cách hình thức theo yêu cầu của Thủ tướng hoặc Nghị viện. Theo Paul Silk và Rhodri Walter trong cuốn “Nghị viện hoạt động như thế nào?” (How parliament works). Vua có quyền phê chuẩn hay không phê chuẩn các dự luật đã được hai viện của Nghị viện thông qua. Tuy nhiên, trong thực tiễn, lần cuối cùng mà Vua không phê chuẩn luật do Nghị viện làm ra là vào năm 1707 dưới thời Nữ hoàng Anne. Nhà Vua hầu như phải thực hiện chức năng của mình theo ý chí của Thủ tướng và Nghị viện. Một nhà văn Anh thế kỷ XIX nổi tiếng là Walter Bagehot đã viết: “ Nữ hoàng buộc phải ký cả lệnh xử tử hình mình nếu cả hai Viện nhất trí gửi lệnh đó cho bà”(2). Từ thế kỷ XVIII đến nay nhà Vua hầu như không tham gia chính trị như người Anh thường nói “Nhà Vua ở trên Chính trị” (The Queen is above politics). Giải thích về sự không tham gia chính trị của Nữ hoàng Anh nhà văn Bagehot cho rằng: “Bí ẩn chính là cuộc sống. Chúng ta không cần phải để Nữ hoàng cao thượng của chúng ta tham dự vào các trận đánh của chính trường. Chính điều đó đã nâng cao vị thế của nữ hoàng và người dân sẽ kính trọng nữ hoàng hơn.” Quyền lực của nhà Vua do vậy thường thể hiện ở các nghi lễ với các hình thức long trọng mà mọi người phải tuân thủ.

Chính phủ Anh do Thủ tướng đứng đầu được thành lập trên cơ sở Đảng chiếm đa số ghế trong nghị viện. Điểm đặc biệt cần nói đến là Chính phủ Anh có khá nhiều thành viên. Chính phủ Anh năm 1977 có 23 thành viên Nội các, 28 các Bộ trưởng không phải thành viên Nội các, 4 Bộ trưởng thuộc Văn phòng Nữ hoàng (gọi là Law Officers of the Crown) nằm ngoài Nội các và trên 50 Quốc vụ khanh (gọi là Junior Ministers) bao gồm các Thư ký Nghị viện (Parliamentary secretaries), Thư ký tài chính (Financial Secretaries), Người phụ trách một đảng (Government whip)... Như vậy phải có trên 100 thành viên Chính phủ. Từ năm 2000 Chính phủ không thể vượt quá 82 thành viên, trong đó không thể vượt quá 63 Bộ trưởng nhà nước (Minister of State) hoặc Thư ký Nghị viện (Parliamentary Secretaries. Hầu hết các Bộ trưởng là thành viên của Hạ viện, một số Bộ trưởng là thành viên của Thượng viện. Bộ trưởng tư pháp (Lord Chancellor) luôn luôn là người của Thượng viện và là Chủ tịch của Thượng viện (Speaker).

Trung tâm của Chính phủ là Nội các, thường có từ 20 đến 23 Bộ trưởng quan trọng nhất. Chính phủ của Thủ tướng Tony Blair năm 2000 có Nội các gồm Thủ tướng và Bộ trưởng các Bộ.

Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngân khố (Prime Minister and First Lord of the Treasury) - Tony Blair;

Công ty Luật Minh Khuê (tổng hợp)