Mục lục bài viết
1. Tổng quan về án lệ số 49/2021/AL về xác định quyết định hành chính ban hành không đúng thẩm quyền
- Nguồn án lệ:
Quyết định giám đốc thẩm số 06/2019/HC-GĐT ngày 02/04/2019 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về vụ án "Khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai" giữa người khởi kiện là ông Thái Văn N với người bị kiện là Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh Đ; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là Nhà thờ V.
-Vị trị nội dung án lệ:
Đoạn 3 phần "Nhận định của Án lệ"
- Khái quát nội dung án lệ:
+ Tình huống án lệ: Chủ tịch Uỷ ban nhân dân ban hành quyết định hành chính giải quyết tranh chấp đất đai mà tranh chấp đó liên quan đến hợp đồng về quyền sử dụng đất.
+ GIải pháp pháp lý:
Trường hợp này, Toà án phải xác định tranh chấp hợp đồng về quyền sử dụng đất thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án; Chủ tịch Uỷ ban nhân dân ban hành quyết định hành chính giải quyết tranh chấp đất đai là không đúng thẩm quyền.
- Quy định của pháp luật liên quan đến án lệ:
Khoản 3 Điều 25 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 (tương ứng với khoản 3 Điều 26 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015)
Điều 136 Luật Đất đai năm 2003 (tương ứng với Điều 203 Luật Đất đại năm 2013)
- Từ khoá của án lệ: "Quyết định hành chính"; "Tranh chấp đất đai"; "Hợp đồng về quyền sử dụng đất"
2. Nội dung vụ án xác định quyết định hành chính ban hành không đúng thẩm quyền
- Tại Đơn khởi kiện đề ngày 24/9/2012 và trong quá trình giải quyết, ông Thái Văn N trình bày:
Nguồn gốc phần đất tranh chấp giữa Nhà thờ V (gọi tắt là nhà thờ) bới hộ gia đình ông Thái Văn N là của Nhà thờ, do cụ Nguyễn Văn Q và cụ Nguyễn Thị S là cha, mẹ của ông Nguyễn Phước T và một phần do ông Nguyễn Văn E hiến cho nhà thờ năm 1960. Năm 1961, Nhà thờ được xây dựng với chiều ngang 11. Năm 1976, Nhà thờ do ông N cất nhà ở trên đất Nhà thờ và trông coi Nhà thờ (do ông N là giáo dân họ đạo), với diện tích chiều ngang 16m, dài từ Quốc lộ 80 đến sông P (khoảng 30m). Ông N cất nhà ở trên phần đất ngang 5m, phần đất chiều ngang còn lại, ông N trồng chuối và xoài. Trong quá trình sử dụng đất, năm 1986 gia đình ông N có xây thêm 2 phòng ở và 1 nhà bếp giáp với nhà chính. Năm 1999, đất Nhà thờ bị sạt lở nên Nhà thờ đã di dời sanh phần đất đối diện (bên kia quốc lộ 80). Phần đất cũ của nhà thờ được giao một phần cho ông Nguyễn Phước Y là con của cụ Q (chủ đất cũ) và giao một phần cho vợ chồng bà M, ông K để đổi lấy vật tư xây dựng Nhà thờ. Riêng diện tích đất của gia đình ông N sử dụng làm nhà ở (gồm nhà xây dựng năm 1976 và 2 phòng ngủ, 1 phòng bếp xây dựng năm 1986) gia đình ông N vẫn tiếp tục sử dụng.
- Ngày 18/01/2003, Linh mục quản nhiệm Nguyễn Quang D cùng đại diện Ban Quới chức Họ đạo Nhà thờ V lập "Tờ giao đất" giao cho ông N sử dụng phần đất chiều ngang 10m, chiều dài từ Quốc lộ 80 đến sông P 30m, tổng diện tích là 300m2.
- Năm 2009, ông N sửa chữa nhà chính kiên cố và cất thêm cửa hàng mua bán điện thoại di động, Nhà thờ không đồng ý nên xảy ra tranh chấp, ông N cho rằng ông đã được Linh mục quản nhiệm Nguyễn Quang D cùng đại diện Ban Quới chức Họ đạo Nhà thờ V cho đất theo "Tờ giao đất" ngày 18/1/2003. Theo Trích đo bản đồ địa chính do Văn phòng Đăng ký quyền sử dụng đất huyện P ngày 1/9/2011 thì nhà chính của N có diện tích 134,7m2 (ngang 5,8 m), cửa hàng điện thoại di động 102,2m2 (ngang 4,4 m)
- Nhờ thờ đã có đơn đến Uỷ ban nhân dân tỉnh Đ đề nghị giải quyết
- Ngày 14/5/2012, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh Đ ban hành Quyết định số 197/QĐ-UBND-NĐ giải quyết tranh chấp đất đai, có nội dung:
Điều 1: Công nhận quyền sử dụng đất cho ông Thái Văn N phần diện tích có vị trí khu vực như sau:
+ Phía Đông giáp ông Nguyễn Phước T, cạnh 23,8m
+ Phía Tây giáp đất Nhà thờ, cạnh 24,3 m
+ Phía Nam giáp QL 80, cạnh 5,8m
+ Phía Bắc giáp sông P, cạnh 5,4m
- Công nhận quyền sử dụng đất cho Nhà thờ V diện tích có vị trí khu vực như sau:
+ Phía Đông giáp với ông Thái Văn N, cạnh 24,3m
+ Phía Tây giáp bà Huỳnh Thị M, cạnh 23,7m
+ Phía Nam giáp QL 80, cạnh 4,4m
+ Phía Bắc giáp sông P, cạnh 4,2m
(Kèm theo bản đồ trích đo của Văn phòng Đăng ký quyền sử dụng đất huyện P xác lập ngày 01/9/2011).
Buộc ông N di dời vật kiến trúc, cây trồng (nếu có) để giao trả lại phần đất trên cho nhà thờ sử dụng.
Ngày 24/9/2012, ông N có đơn khởi kiện đề nghị Toà án huỷ Quyết định số 197/QĐ-UBND-NĐ ngày 14/5/2012 của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh Đ.
- Ý kiến của Uỷ ban nhân dân tỉnh Đ: Nguồn gốc đất là ông Nguyễn Văn Q và ông Nguyễn Văn E hiến cho Nhà thờ năm 1960, diện tích ngang 28m, dài từ Quốc lộ 30 đến sông P. Nhà thờ xây dựng năm 1969, diện tích chiều ngang 8m. Năm 1976, Nhà thờ giao cho ông N phần đất ngang khoảng 4m dài từ Quốc lộ 80 đến sông P để cất nhà ở và trông coi Nhà thơ, phần đất còn lại ông N trồng một số cây ăn trái. Năm 1999, Nhà thờ xuống cấp nên di chuyển đến vị trí khác. Đất đã giao cho chủ cũ một phần, một phần trao đổi với ông K để lấy vật tư xây dựng Nhà thờ mới.
Ngày 18/01/2003, Linh mục quản nhiệm Nguyễn Quang D cũng đại diện Ban Quới chức Họ đạo Nhà thờ V lập "Tờ giao đất" giao cho ông N sử dụng phần đất chiều ngang 10m, chiều dài từ Quốc lộ 80 đến sông P, diện tích 300m2.
Năm 2009, ông N sửa chữa, xây dựng nhà mới, mở rộng cất hết phần đất chiều ngang 10m thì xảy ra tranh chấp với Nhà thờ. Khi nhà thờ khiếu nại, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh Đ giải quyết bằng Quyết định số 197/QĐ-UBND-NĐ ngày 14/5/2012 giao cho ông N được quyền sử dụng diện tích ngang cạnh là 5,8m và 5,4m, chiều dài cạnh 23,8m và 24,3m, phần còn lại buộc ông N phải di dời vật kiến trúc, cây trồng trả lại diện tích đất cho Nhà thờ sử dụng. Quyết định trên là đã xem xét qúa trình sử dụng đất của gia đình ông N, tuy năm 2003 Linh mục nhà thờ V có làm "Tờ giao đất: cho ông N nhưng chưa được chính quyền địa phương chứng thực nên không có giá trị pháp lý. Quyết định của Uỷ ban nhân dân tỉnh Đ là có căn cứ, đề nghị không chấp nhận yêu cầu của ông N.
- Ý kiến của nhà thờ V: Nguồn gốc đất của Nhà thờ được giáo dân họ đạo là ông Q hiến diện tịch ngang 21m, dàu từ quốc lộ 80 đến sông P và ông E bán diện tích ngang 7m từ Quốc lộ 80 đến sông P vào năm 1960. Tổng cộng chiều ngang 28m dài từ Quốc lộ 80 đến sông P. Năm 1961, xây dựng Nhà thờ chiều ngang 11m. Năm 1976, Nhà thờ có cho gia đình ông N (gia đình ông N là giáo dân họ đạo) sử dụng phần đất ngang 4m, chiều dài từ quốc lộ 80 đến mé sông để cất nhà ở và trông coi Nhà thờ, diện tích đất còn lại thì gia đình ông N trồng cây ăn trái (Xoài, chuối). Năm 1986, gia đình ông N xây cất thêm hai phòng ở và một nhà bếp giáp với nhà chính.
Năm 1999, đất Nhà thờ bị sạt lở, Nhà thờ được sự cho phép của Uỷ ban nhân dân tỉnh di dời sang phần đất đối diện để xây dựng lại. Phần đất cũ của Nhà thờ, Nhà thờ giao lại cho ông T 1 phần, do ông T là con của ông Q (chủ cũ) và giao cho vợ chồng bà M, ông K một phần đất để đổi lấy vật tư xây dựng Nhà thờ.
Ngày 18/1/2003, Linh mục quản nhiệm Nhà thờ là ông Nguyễn Quang D cùng Ban Quới chức họ đạo Nhà thờ V có làm tờ giao đất cho gia đình ông N chiều ngang 10m, chiều dài từ Quốc lộ 80 xuống mé sông. Hai bên thoả thuận miệng, mục đích là để trao đổi vật tư xây dựng Nhà thờ, nhưng gia đình ông N không thực hiện, nên Nhà thờ không ra Uỷ ban nhân dân xã để xác nhận giấy giao đất cho ông N.
Năm 2009, ông N xây dựng nhà kiên cố và xây thêm phần nhà mua bán điện thoại, Nhà thờ không đồng ý nên phát sinh tranh chấp. Nhà Thờ chỉ đồng ý chỉ đồng ý cho ông N sử dụng phần đất chiều ngang 4,4 m dài từ Quốc lộ 80 đến sông P phải trả lại cho nhà thờ. Nhà thờ thống nhất theo Quyết định số 197/QĐ-UBND-NĐ ngày 14/5/2012 của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh và đề nghị Toà án bác yêu cầu của ông N.
Tại Bản án hành chính sơ thẩm số 02/2014/HC-ST ngày 27/6/2014, Toà án nhân dân tỉnh Đồng Tháp đã quyết định:
Bác yêu cầu của ông Thái Văn N về việc yêu cầu huỷ Quyết định số 197/QĐ-UBND-NĐ ngày 14/5/2012 của Chủ tịch uỷ ban nhân dân tỉnh Đ.
Toà án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí.
Ngày 10/7/2014, ông N có đơn kháng cáo toàn bộ bản án hành chính sơ thẩm
Tại Quyết định kháng nghị số 89/QĐKNPT-P5 ngày 11/7/2014, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Tháp kháng nghị Bản án hành chính sơ thẩm số 02/2014/HS-ST ngày 27/6/2014 của Toà án nhân dân tỉnh Đồng Tháp và đề nghị Toà án cấp phúc thẩm xử theo hướng sửa đổi bản án sơ thẩm, huỷ một phần Quyết định số 197/QĐ-UBND-NĐ ngày 14/5/2012 của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh Đ.
Tại phiên toà phúc thẩm đại điện viện kiểm sát nhân dân Cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh rút toàn bộ quyết định kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Tháp.
Tại Bản án hành chính phúc thẩm số 65/2015/HC-PT ngày 9/9/2015, Toà án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định: Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với quyết định kháng nghị 89/QĐKNPT-P5 ngày 11.7.2014 của Viện trưởng VKSND tỉnh Đồng Tháp. Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông B (đại diện theo uỷ quyền của người khởi kiện), Giữ y án sơ thẩm số 02/2014/HC-ST ngày 27/6/2014 của Toà án nhân dân tỉnh Đồng Tháp...... Ngoài ra còn những nội dung khác quy định tại án lệ số 49/2021/AL.
3. Nhận định, quyết định của Toà án về vụ án xác định quyết định hành chính ban hành không đúng thẩm quyền
Dựa vào thẩm quyền giải quyết tranh chấp, nội dung vụ án Toà án quyết định: Căn cứ vào khoản 1 Điều 271, khoản 3 Điều 272, khoản 2 Điều 274 Luật Tố tụng hành chính:
- Chấp nhận quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 25/2018/KN-HC ngày 09/11/2018 của Chánh án Toà án nhân dân tối cao đối với Bản án hành chính phúc thẩm số 65/2015/HC-PT ngày 9/9/2015 của Toà án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh.
- Huỷ Bản án hành chính phúc thẩm số 65/2015/HC-PT ngày 9/9/2015 của Toà án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh.
- Giao hồ sơ vụ án cho Toà án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.
Bạn đọc có thể tham khảo bài viết: Tổng hợp các án lệ Dân sự của Việt Nam hiện nay. Vui lòng liên hệ số tổng đài 19006162 hoặc liên hệ email lienhe@luatminhkhue.vn nếu có bất kì vấn đề pháp luật nào cần giải đáp!