- 1. Cơ sở pháp lý:
- 2. Áp dụng pháp luật là gì?
- 3. Nguyên tắc áp dụng pháp luật theo quy định của mộ số quốc gia
- 3.1. Nguyên tắc ưu tiên áp dụng luật được ban hành sau tại một số nước
- 3.2. Nguyên tắc ưu tiên áp dụng luật chuyển ngành trước luật chung
- 3.3. Giải pháp xử lý mâu thuẫn phát sinh khi áp dụng nguyên tắc áp dụng pháp luật
- 4. Nguyên tắc áp dụng pháp luật trong pháp luật Việt Nam
- 4.1. Nguyên tắc ưu tiên áp dụng luật chuyên ngành trước luật chung
- 4.2. Nguyên tắc ưu tiên áp dụng luật được ban hành sau
- 5. Đánh giá và hướng hoàn thiện
Nội dung được biên tập từ chuyên mục tư vấn luật Dân sự của Công ty luật Minh Khuê
>> Luật sư tư vấn pháp luật Dân sự, gọi: 1900 6162
1. Cơ sở pháp lý:
- Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015
2. Áp dụng pháp luật là gì?
Áp dụng pháp luật là hoạt động thể hiện tính tổ chức, quyền lực nhà nước, do các cơ quan nhà nước, tổ chức hoặc cá nhân có thẩm quyền theo quy định của pháp luật tiến hành nhằm cá biệt hoá các quy phạm pháp luật hiện hành vào những trường hợp cụ thể, đối với các cá nhân, tổ chức cụ thể.
3. Nguyên tắc áp dụng pháp luật theo quy định của mộ số quốc gia
3.1. Nguyên tắc ưu tiên áp dụng luật được ban hành sau tại một số nước
Nguyên tắc ưu tiên áp dụng luật được ban hành sau là nguyên tắc cơ bản trong áp dụng pháp luật ở các nước theo truyền thống pháp điển hóa (Dân luật), có nguồn gốc từ Luật La Mã. Chẳng hạn, Bộ luật Dân sự (BLDS) của Nhật Bản quy định, nguyên tắc ưu tiên áp dụng quy phạm có thời điểm ban hành sau (khi cùng một quan hệ được điều chỉnh bởi hai quy phạm pháp luật có nội dung khác nhau ở trong hai văn bản pháp luật có hiệu lực pháp lý ngang nhau, thì ưu tiên áp dụng quy phạm của văn bản được ban hành sau) là một trong ba nguyên tắc cơ bản để xác định vị trí của các quy phạm pháp luật dân sự trong hệ thống pháp luật (bên cạnh nguyên tắc tôn trọng tầm hiệu lực pháp lý của văn bản và nguyên tắc ưu tiên áp dụng quy phạm của pháp luật chuyên ngành).
Nguyên tắc này cũng được quy định tại khoản 3 Điều 156 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (BHVBQPPL) của nước ta.
3.2. Nguyên tắc ưu tiên áp dụng luật chuyển ngành trước luật chung
Nguyên tắc “ưu tiên áp dụng luật chuyên ngành trước luật chung” cũng là một nguyên tắc có nguồn gốc từ Luật La Mã. Nguyên tắc này được quy định trong hệ thống pháp luật ở nhiều nước, đặc biệt trong pháp luật dân sự và luật điều ước quốc tế, cụ thể:
- Nhật Bản: nguyên tắc ưu tiên áp dụng quy định của luật chuyên ngành: khi một quan hệ pháp luật được điều chỉnh bởi cả quy định của đạo luật chung và đạo luật chuyên ngành thì ưu tiên áp dụng quy định của luật chuyên ngành. Pháp luật Nhật Bản coi đối tượng điều chỉnh của các đạo luật là tiêu chí để phân định một luật là luật chuyên ngành hay là luật chung. BLDS được coi là luật chung, các quy định của pháp luật dân sự được coi là các quy định của luật chung, còn các quy định điều chỉnh các quan hệ giữa các chủ thể bình đẳng về địa vị pháp lý (các quan hệ của luật tư) trong các lĩnh vực kinh tế, xã hội có tính đặc thù như thương mại, bảo hiểm, chứng khoán, ngân hàng, dịch vụ… được coi là các quy định của luật chuyên ngành. Về kỹ thuật lập pháp, luật được coi là luật chuyên ngành phải bao hàm điều khoản quy định, luật này sẽ được ưu tiên áp dụng trước luật chung.
Luật Thương mại Nhật Bản cũng ghi nhận thứ tự ưu tiên áp dụng quy định của Luật để điều chỉnh các giao dịch kinh doanh, thương mại… trừ khi có quy định ở luật khác. Trường hợp Luật này không quy định, thì áp dụng tập quán thương mại, sau đó là quy định của BLDS.
- Hàn Quốc: Theo quy định của Luật Thương mại Hàn Quốc, chỉ áp dụng trật tự ưu tiên đối với các vấn đề liên quan đến thương mại. Trường hợp không thuộc quy định của Luật này thì sẽ ưu tiên tập quán pháp thương mại, sau đó là quy định của BLDS hoặc các luật khác.
- Đức: Tương tự như các quốc gia khác, trong một số lĩnh vực như hợp đồng, BLDS Đức quy định những vấn chung (mang tính phổ quát), còn những vấn đề riêng đặc thù của chuyên ngành do pháp luật chuyên ngành quy định cụ thể. Vì vậy, khi có sự không thống nhất giữa các quy định về cùng vấn đề trong BLDS và trong luật chuyên ngành thì quy định của luật chuyên ngành sẽ được ưu tiên áp dụng.
- BLDS Trung Quốc, Liên bang Nga, Vương quốc Campuchia… và nhiều nước khác đều quy định tương tự về nguyên tắc ưu tiên áp dụng luật chuyên ngành trước quy định của BLDS.
3.3. Giải pháp xử lý mâu thuẫn phát sinh khi áp dụng nguyên tắc áp dụng pháp luật
Thực tiễn áp dụng pháp luật cho thấy, mâu thuẫn, xung đột pháp luật phát sinh khi văn bản luật chuyên ngành được ban hành trước văn bản luật chung (chẳng hạn, Luật Thương mại được ban hành trước so với BLDS). Để xử lý tình huống này, pháp luật các nước áp dụng giải pháp sau:
Thứ nhất, giải pháp tư pháp: Theo kinh nghiệm của Đức, việc giải quyết mâu thuẫn trong áp dụng các văn bản pháp luật cùng thứ bậc là do Tòa án thực hiện. Điều 126 Hiến pháp CHLB Đức quy định: “Các quan điểm khác nhau về việc tiếp tục tồn tại hiệu lực của pháp luật là pháp luật liên bang, được Tòa án hiến pháp liên bang giải quyết”. Tương tự, ở đa số các nước khác, khi giữa các quy định pháp luật được xem xét áp dụng có xung đột, toà án đóng vai trò là cơ quan giải thích và lựa chọn quy phạm để áp dụng.
Thứ hai, quy định nguyên tắc xử lý xung đột pháp luật:
- Nhật Bản: Pháp luật Nhật Bản quy định nguyên tắc theo thứ tự ưu tiên như sau: (1). Ưu tiên áp dụng quy định của văn bản pháp luật có hiệu lực pháp lý cao hơn; (2) Ưu tiên áp dụng quy định của luật chuyên ngành trước quy định của luật chung; (3) Ưu tiên áp dụng quy định của văn bản luật ban hành sau
- Phillipines cũng áp dụng quy định nguyên tắc giải quyết mâu thuẫn luật chung - luật riêng, luật ban hành trước - ban hành sau. Theo đó:
+ Khi luật chung được ban hành trước, luật chuyên ngành được coi là trường hợp ngoại lệ đối với luật chung. Do đó, luật chung vẫn có hiệu lực và không bị bãi bỏ (vụ kiện Lichauco v. Apostol, 44 Phil 138), trừ khi vấn đề liên quan đến điều khoản ngoại lệ hay điều luật chuyên ngành. Tuy nhiên, trường hợp tồn tại mâu thuẫn giữa luật chuyên ngành và luật chung, thì quy định của luật chuyên ngành có ưu thế trước quy định có liên quan của luật chung;
+ Nếu luật chuyên ngành ban hành trước, cả luật chuyên ngành và luật chung đều có hiệu lực, trừ các trường hợp sau: (i) Có điều khoản tuyên bố rõ ràng về điều ngược lại; (ii) Hoặc tồn tại mâu thuẫn rõ ràng, nhất thiết và không thể hoá giải được (vụ kiện Cia General v. Coll. of Customs, 46 Phil. Cool); (iii) Hoặc trừ khi luật chung được ban hành sau điều chỉnh toàn bộ chủ thể và rõ ràng nhằm mục đích thay thế luật chuyên ngành về nội dung đó (Vụ kiện Joaquin v. Navarro, 81 Phil. 373)
- Luật Ban hành văn bản Trung Quốc quy định, khi điều khoản quy định cụ thể, đặc biệt có mâu thuẫn với điều khoản chung của luật quốc gia, các quy định hành chính, các sắc lệnh địa phương, các quy định vùng tự trị và đặc khu hoặc các quy tắc do cùng một cơ quan ban hành, thì áp dụng điều khoản cụ thể, đặc biệt; nếu điều khoản mới mâu thuẫn với điều khoản cũ, thì áp dụng điều khoản mới.
4. Nguyên tắc áp dụng pháp luật trong pháp luật Việt Nam
4.1. Nguyên tắc ưu tiên áp dụng luật chuyên ngành trước luật chung
Nguyên tắc ưu tiên áp dụng luật chuyên ngành trước luật chung”đã được quy định trong nhiều văn bản luật. Khoản 1 Điều 4 BLDS năm 2015 quy định: “Bộ luật này là luật chung điều chỉnh các quan hệ dân sự”. Với nguyên tắc này, BLDS là luật chung điều chỉnh toàn bộ các quan hệ pháp luật thuộc “pháp luật dân sự”. Bên cạnh đó, khoản 2 Điều 4 BLDS năm 2015 quy định: “Luật khác có liên quan điều chỉnh quan hệ dân sự trong các lĩnh vực cụ thể không được trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự quy định tại Điều 3 của Bộ luật này”; khoản 3 Điều này quy định: “Trường hợp luật khác có liên quan không quy định hoặc có quy định nhưng vi phạm khoản 2 Điều này thì quy định của Bộ luật này được áp dụng”. Như vậy, với quy định này, BLDS đã thể hiện tinh thần, nguyên lý chung của nguyên tắc ưu tiên áp dụng luật chuyên ngành trước luật chung. Theo đó, do đặc thù của quan hệ chuyên ngành, các quan hệ có cùng bản chất pháp lý, luật riêng/chuyên ngành có thể quy định khác BLDS, nhưng không được trái với các nguyên tắc chung của luật dân sự. Ví dụ, liên quan đến vấn đề lãi suất, Điều 468 BLDS năm 2015 quy định việc áp dụng mức trần lãi suất vay 20%, trừ “trường hợp luật khác có liên quan quy định khác”. “luật khác” ở đây được hiểu là luật riêng/chuyên ngành (Luật Ngân hàng nhà nước, Luật Các tổ chức tín dụng…).
Tương tự, Điều 3 Luật Doanh nghiệp 2020 quy định “Áp dụng Luật doanh nghiệp và các luật chuyên ngành”; theo đó,“trường hợp luật chuyên ngành có quy định đặc thù về việc thành lập, tổ chức quản lý, tổ chức lại, giải thể và hoạt động có liên quan của doanh nghiệp thì áp dụng quy định của luật đó” (luật chuyên ngành trong trường hợp này là Luật Luật sư, Luật Công chứng, Luật Đấu giá... khi có quy định về việc đăng ký, thành lập doanh nghiệp mà quy định có nội dung khác với Luật Doanh nghiệp thì áp dụng luật này).
Trong hệ thống pháp luật nước ta hiện nay, việc diễn đạt nguyên tắc pháp luật chuyên ngành có ưu thế trước luật chung còn được thể hiện dưới hình thức: “ưu tiên áp dụng pháp luật”. Ví dụ, Luật Đầu tư năm 2020, Bộ luật Hàng hải Việt Nam năm 2015, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Luật Thương mại…
4.2. Nguyên tắc ưu tiên áp dụng luật được ban hành sau
Nguyên tắc ưu tiên áp dụng luật được ban hành sau được thể hiện tại khoản 3 Điều 156 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 (BHVBQPPLnăm 2015), theo đó, “các văn bản quy phạm pháp luật do cùng một cơ quan ban hành có quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng quy định của văn bản ban hành sau”.
Mặc dù pháp luật Việt Nam đã xác định hai nguyên tắc áp dụng pháp luật nêu trên, nhưng các quy định và việc thực hiện quy định hiện hành về nguyên tắc áp dụng pháp luật vẫn còn một số hạn chế sau:
Thứ nhất, các quy định hiện hành không xác định rõ thứ tự ưu tiên khi áp dụng hai nguyên tắc trên, dẫn đến, khi phát sinh xung đột, mâu thuẫn sẽ không xác định được phải áp dụng nguyên tắc nào.
Thứ hai, các quy định hiện hành cũng không xác định rõ luật nào là luật chung, luật nào là luật riêng/luật chuyên ngành; không quy định rõ luật chuyên ngành ban hành trước thì áp dụng quy định của luật nào... Ví dụ: về lý thuyết, Luật Đầu tư quy định về thủ tục đầu tư là “luật chung” so với các luật khác; nhưng về kỹ thuật lập pháp, hiện không có bất cứ quy định nào xác nhận điều này. Trên thực tế, Luật Đầu tư quy định về hồ sơ, trình tự, thủ tục đầu tư chung của dự án đầu tư, nhưng không điều khoản nào của Luật quy định các luật khác có thể quy định thêm về hồ sơ, trình tự, thủ tục đầu tư. Trong khi đó, một số “luật chuyên ngành” lại yêu cầu thêm về tài liệu trong hồ sơ thực hiện thủ tục đầu tư.
Thứ ba, còn diễn ra tình trạng một số bộ, ngành lạm dụng nguyên tắc “ưu tiên áp dụng pháp luật” để ban hành nhiều quy định đặc thù có lợi cho bộ, ngành, lĩnh vực quản lý của mình, dễ tạo ra nguy cơ hệ thống pháp luật chồng chéo, không thống nhất.
Thứ tư, hoạt động rà soát, thẩm định, thẩm tra văn bản trong quá trình xây dựng luật còn bất cập dẫn đến một số trường hợp không phát hiện và sửa đổi, bổ sung kịp thời các văn bản mâu thuẫn, chồng chéo.
Thứ năm, pháp luật hiện hành chưa trù liệu cơ chế giải quyết mâu thuẫn, xung đột trong áp dụng các nguyên tắc nêu trên.
5. Đánh giá và hướng hoàn thiện
Qua nghiên cứu kinh nghiệm pháp luật ở một số nước và thực tiễn pháp luật Việt Nam có thể thấy:
- Nguyên tắc ưu tiên áp dụng luật được ban hành sau được quy định để dự liệu các tình huống có sự mâu thuẫn trong các quy định của pháp luật. Do vậy, trong quá trình áp dụng pháp luật khi gặp tình huống mâu thuẫn, chồng chéo (không phải là mong muốn, chủ đích của nhà làm luật) thì sẽ áp dụng nguyên tắc chung này để giải quyết.
- Nguyên tắc ưu tiên áp dụng luật chuyên ngành trước luật chung là nguyên tắc pháp lý mang tính phổ quát được quy định trong pháp luật ở nhiều nước. Khi xây dựng luật, các nhà làm luật đã dự liệu có chủ đích một cách rõ ràng những quy định có tính đặc thù của luật riêng/chuyên ngành (hay luật khác) so với quy định có tính nguyên tắc của luật chung (ví dụ: Bộ luật dân sự), dù luật chuyên ngành/luật riêng được ban hành trước hay sau so với luật chung. Tuy nhiên, trên thực tế, rất khó xác định tiêu chí định tính, định lượng rõ ràng đâu là “luật chung”, đâu là “luật riêng”, “luật chuyên ngành”. Do vậy, để khắc phục vấn đề này, về mặt kỹ thuật lập pháp, trong một văn bản luật được coi là luật chuyên ngành phải có một điều khoản quy định rõ ràng rằng, quy định cụ thể nào của luật này sẽ được ưu tiên áp dụng trước luật chung. Trong trường hợp, luật chung ban hành sau, nếu nội dung tương ứng trong luật chuyên ngành không phù hợp thì cần trù liệu điều khoản huỷ bỏ nội dung đó.
- Cả hai nguyên tắc áp dụng pháp luật nêu trên đều rất cần thiết trong xử lý các tình huống pháp lý phát sinh trong thực tiễn. Trong trường hợp, giữa các luật về cùng một vấn đề có quy định khác nhau/mâu thuẫn, thì cần xem xét ưu tiên áp dụng nguyên tắc ưu tiên áp dụng luật chuyên ngành trước luật chung như một ngoại lệ chung, trước khi xem xét áp dụng nguyên tắc ưu tiên áp dụng luật được ban hành sau với điều kiện, luật được coi là chuyên ngành/luật riêng phải có một điều khoản quy định rõ ràng rằng, quy định cụ thể nào của đạo luật chuyên ngành này sẽ được ưu tiên áp dụng so với đạo luật chung.
- Từ nhận xét trên, chúng tôi cho rằng,cần sửa đổi khoản 3 Điều 156 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 theo hướng: “Trong trường hợp các văn bản quy phạm pháp luật do cùng một cơ quan ban hành có quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng quy định của văn bản ban hành sau; trường hợp văn bản ban hành trước có quy định ưu tiên áp dụng pháp luật đối với vấn đề đó thì áp dụng quy định của văn bản ban hành trước, trừ trường hợp tồn tại mâu thuẫn rõ ràng và không thể hoá giải được”.
Bên cạnh đó, trong công tác xây dựng pháp luật, việc tăng cường kỷ luật, kỷ cương, bảo đảm thực hiện đầy đủ, nghiêm túc Điều 12 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 ngay từ giai đoạn soạn thảo, thẩm định, thẩm tra, nhằm hạn chế tối đa những quy định mâu thuẫn, chồng chéo giữa các luật, cũng như việc lạm dụng nguyên tắc “ưu tiên áp dụng pháp luật”…là rất cần thiết. Do đó, chúng tôi cho rằng, cần sửa đổi khoản 2 Điều 12 theo hướng, quy định rõ hơn về trách nhiệm của cơ quan chủ trì soạn thảo trong việc rà soát hệ thống pháp luật và trong hồ sơ dự án trình thẩm định, thẩm tra, thông qua... phải có báo cáo kết quả rà soát để làm cơ sở xác định rõ trách nhiệm và bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật. Theo đó, khoản 2 Điều 12 viết lại như sau: trong trường hợp văn bản (phần, chương, mục, tiểu mục, điều, khoản, điểm của văn bản QPPL) do mình đã ban hành có quy định khác với văn bản mới nhưng cần tiếp tục được áp dụng thì phải được chỉ rõ trong văn bản mới đó.
- Về lâu dài, chúng tôi cho rằng, cần nghiên cứu hoàn thiện cơ chế bảo hiến hoặc giao cho Toà án nhân dân tối cao trách nhiệm xử lý khi có sự mâu thuẫn, xung đột trong áp dụng các nguyên tắc áp dụng pháp luật nêu trên.
Trên đây là tư vấn của chúng tôi. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ bộ phận tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài điện thoại số: 1900 6162 để được giải đáp.
Rất mong nhận được sự hợp tác!
Trân trọng./.
Luật Minh Khuê - Sưu tầm & biên tập