Mục lục bài viết
1. Bảo lĩnh trong tố tụng hình sự là gì?
Bảo lĩnh là biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự do cơ quan, người có thẩm quyền áp dụng đối với bị can, bị cáo khi có cá nhân hoặc tổ chức có giấy cam đoan để đảm bảo bị can, bị cáo phải có mặt theo giấy triệu tập, không bỏ trốn hoặc tiếp tục phạm tội hoặc vi phạm pháp luật khác.
Theo quy định tại Điều 121 Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS): “Bảo lĩnh là biện pháp ngăn chặn thay thế tạm giam. Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi và nhân thân của bị can, bị cáo, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có thể quyết định cho họ được bảo lĩnh”.
Như vậy, biện pháp bảo lĩnh chỉ áp dụng đối với đối tượng là bị can hoặc bị cáo; chỉ áp dụng sau khi đã có quyết định khởi tố vụ án và khởi tố bị can; đây là biện pháp ngăn chặn để thay thế biện pháp tạm giam.
2. Căn cứ áp dụng biện pháp bảo lĩnh
Xuất phát từ nguyên tắc tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân được quy định tại Điều 8 Bộ luật TTHS, các biện pháp ngăn chặn được áp dụng, huỷ bỏ và thay đổi dựa trên hai tiêu chí cơ bản được áp dụng để đánh giá: tính hợp pháp và/hoặc sự cần thiết.
Khi bị can, bị cáo đang bị tạm giam, căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi và nhân thân của bị can, bị cáo, cơ quan THTT có thể quyết định áp dụng biện pháp bảo lĩnh thay thế cho biện pháp tạm giam. Như vậy, việc thay thế tạm giam bằng bảo lĩnh phụ thuộc vào ý chí chủ quan của cơ quan THTT qua việc đánh giá sự cần thiết của việc áp dụng biện pháp tạm giam trong từng trường hợp cụ thể. Đối với trường hợp bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi, sau khi quyết định tạm giam mà có đủ căn cứ áp dụng biện pháp bảo lĩnh hoặc đặt tiền để bảo đảm, cơ quan THTT cần thay thế ngay biện pháp tạm giam bằng biện pháp bảo lĩnh hoặc đặt tiền để bảo đảm.
Trên thực tế, do chưa có văn bản hướng dẫn của cơ quan có thẩm quyền về tiêu chí áp dụng biện pháp bảo lĩnh, tạm giam vẫn là lựa chọn an toàn của cơ quan THTT. Thậm chí có những bị can, bị cáo thuộc loại tội phạm ít nghiêm trọng, có nhân thân tốt, phạm tội lần đầu có yêu cầu bảo lĩnh nhưng vẫn không được cơ quan THTT chấp thuận. Ngược lại, có trường hợp cơ quan THTT “mạnh dạn” áp dụng bảo lĩnh cho bị can phạm tội đặc biệt nghiêm trọng. Ví dụ, trong vụ án MobiFone mua 95% cổ phần của AVG, bị can Phạm Thị Phương Anh - cựu Phó Tổng giám đốc MobiFone bị khởi tố về tội vi phạm quy định về quản lý và sử dụng vốn đầu tư công gây hậu quả nghiêm trọng quy định tại khoản 3 Điều 220 Bộ luật hình sự năm 2015 có mức cao nhất của khung hình phạt lên đến 20 năm - thuộc loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng đã được thay đổi biện pháp ngăn chặn sang bảo lĩnh sau hơn 9 tháng bị tạm giam. Trong trường hợp này, bảo lĩnh tuy không trái với quy định về căn cứ áp dụng bảo lĩnh, nhưng lại thiếu công bằng với những trường hợp có tính chất, mức độ nguy hiểm ít hơn nhiều, nhân thân tốt nhưng lại không được chấp thuận.
Để khắc phục bất cập nêu trên, tác giả cho rằng, Tòa án nhân dân Tối cao cần ban hành văn bản hướng dẫn căn cứ áp dụng biện pháp bảo lĩnh theo hướng sau:
- Ưu tiên áp dụng biện pháp bảo lĩnh thay thế cho biện pháp tạm giam đối với bị can, bị cáo thoả mãn các điều kiện như: (i) bị can, bị cáo phạm tội ít nghiêm trọng; tội nghiêm trọng hoặc tội rất nghiêm trọng do vô ý; (ii) bị can, bị cáo phạm tội lần đầu, có nhân thân tốt, có nơi cư trú rõ ràng, thành khẩn khai báo… Các trường hợp còn lại, căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi và nhân thân của bị can, bị cáo, cơ quan THTT vẫn có thể quyết định áp dụng biện pháp bảo lĩnh thay thế cho biện pháp tạm giam;
- Không áp dụng biện pháp bảo lĩnh thay thế cho biện pháp tạm giam như: bị can, bị cáo có nhân thân xấu; phạm tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý; đối tượng là chủ mưu, cầm đầu; bị bắt theo quyết định truy nã; phạm tội thuộc trường hợp tái phạm, tái phạm nguy hiểm…
3. Nghĩa vụ cam đoan của bị can, bị cáo
Bộ luật TTHS năm 2003 chỉ đặt ra nghĩa vụ cam đoan đối với cá nhân, tổ chức nhận bảo lĩnh mà thiếu các quy định về nghĩa vụ cam đoan của bị can, bị cáo được bảo lĩnh. Rõ ràng, đây là một thiếu sót rất lớn vì để được áp dụng bảo lĩnh, bị can, bị cáo cũng cần có những cam đoan cụ thể về việc tuân thủ các quy định của pháp luật làm cơ sở để đánh giá việc chấp hành và áp dụng lại biện pháp tạm giam khi bị can, bị cáo có những hành vi vi phạm nghĩa vụ cam đoan, gây ảnh hưởng tới hoạt động tố tụng trong thời gian được bảo lĩnh. Khắc phục hạn chế này, khoản 3 Điều 121 Bộ luật TTHS năm 2015 đã quy định cụ thể về nghĩa vụ cam đoan của bị can, bị cáo. Theo đó, bị can, bị cáo được bảo lĩnh phải làm giấy cam đoan thực hiện các nghĩa vụ: có mặt theo giấy triệu tập, trừ trường hợp vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan; không bỏ trốn hoặc tiếp tục phạm tội; không mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; không tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; không đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm và người thân thích của những người này.
4. Điều kiện nhận bảo lĩnh của cá nhân, cơ quan, tổ chức
Pháp luật TTHS hiện hành ghi nhận bảo lĩnh được thực hiện dưới hai hình thức: cơ quan, tổ chức bảo lĩnh và cá nhân bảo lĩnh. Bộ luậtTTHS năm 2015 đã quy định chặt chẽ và chi tiết điều kiện nhận bảo lĩnh của cá nhân. Cụ thể, cá nhân nhận bảo lĩnh phải đáp ứng đầy đủ các điều kiện sau:
- Cá nhân là người đủ 18 tuổi trở lên, nhân thân tốt, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, thu nhập ổn định và có điều kiện quản lý người được bảo lĩnh;
- Bị can, bị cáo được bảo lĩnh là người thân thích của họ;
- Có ít nhất hai người cùng nhận bảo lĩnh
- Làm giấy cam đoan không để bị can, bị cáo vi phạm các nghĩa vụ quy định tại khoản 3 Điều 121 Bộ luậtTTHS năm 2015 có xác nhận của chính quyền xã, phường, thị trấn nơi người đó cư trú hoặc cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc, học tập.
Tuy nhiên, Bộ luật TTHS năm 2015 vẫn chưa quy định về điều kiện nhận bảo lĩnh của cơ quan, tổ chức. Vì vậy, tác giả cho rằng, văn bản hướng dẫn của Tòa án nhân dân tối cao cần quy định cụ thể điều kiện nhận bảo lĩnh của cơ quan, tổ chức. Theo đó, cơ quan, tổ chức không được nhận bảo lĩnh cho bị can, bị cáo là người của cơ quan, tổ chức mình trong các trường hợp: cơ quan nhà nước đang áp dụng thủ tục giải thể theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền; doanh nghiệp đang rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán hoặc đang bị áp dụng thủ tục giải quyết phá sản; hợp tác xã đang bị áp dụng thủ tục giải thể; doanh nghiệp nước ngoài không có chi nhánh, văn phòng đại diện tại Việt Nam…
Việc quy định cụ thể về điều kiện nhận bảo lĩnh của cơ quan, tổ chức như trên là rất cần thiết để đảm bảo việc thực hiện các nghĩa vụ khi nhận bảo lĩnh, đồng thời tránh tình trạng lúng túng khi áp dụng trên thực tế.
5. Trách nhiệm pháp lý của bị can, bị cáo và chủ thể nhận bảo lĩnh
Hiện nay, để được cơ quan có thẩm quyền áp dụng biện pháp bảo lĩnh, bị can, bị cáo và chủ thể nhận bảo lĩnh đều phải làm giấy cam đoan theo quy định của pháp luật TTHS, đi kèm với đó là các trách nhiệm pháp lý khi vi phạm nghĩa vụ đã cam đoan. Bị can, bị cáo được bảo lĩnh phải làm giấy cam đoan thực hiện các nghĩa vụ như có mặt theo giấy triệu tập, không bỏ trốn hoặc tiếp tục phạm tội, tiêu huỷ chứng cứ…
Trường hợp bị can, bị cáo vi phạm các nghĩa vụ đã cam đoan thì đương nhiên bị tạm giam. Chủ thể nhận bảo lĩnh cũng phải làm giấy cam đoan có xác nhận của người đứng đầu (đối với cơ quan, tổ chức); xác nhận của chính quyền xã, phường, thị trấn nơi cư trú hoặc cơ quan tổ chức nơi làm việc, học tập (đối với cá nhân) với nội dung không để bị can, bị cáo vi phạm các nghĩa vụ đã cam đoan. Cơ quan, tổ chức, cá nhân nhận bảo lĩnh để bị can, bị cáo vi phạm nghĩa vụ đã cam đoan thì tùy tính chất, mức độ vi phạm mà bị phạt tiền theo quy định của pháp luật. Nghị định số 167/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng cháy và chữa cháy; phòng, chống bạo lực gia đình đã quy định mức phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 2.000.000 đồng đối với hành vi “vi phạm các quy định về việc chấp hành biện pháp ngăn chặn: bắt, tạm giữ, tạm giam, bảo lãnh, cấm đi khỏi nơi cư trú, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm hoặc có các hành vi vi phạm các biện pháp ngăn chặn khác theo quy định của pháp luật”. Tác giả cho rằng, so với tính chất và mức độ vi phạm, mức phạt tiền này là quá thấp, chưa đủ sức để “răn đe”, phòng ngừa vi phạm có thể xảy ra.
Ở một số nước trên thế giới, chế tài xử phạt trong trường hợp người nhận bảo lĩnh không thực hiện đúng nghĩa vụ của mình có tính nghiêm khắc hơn rất nhiều, thậm chí có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Nhằm mục đích phòng ngừa vi phạm nghĩa vụ bảo lĩnh, tác giả cho rằng, cần sửa đổi quy định của Nghị định số 167/2013/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi vi phạm các quy định về chấp hành biện pháp ngăn chặn nói chung và biện pháp bảo lĩnh nói riêng theo hướng: tăng mức xử phạt tiền lên gấp nhiều lần để ràng buộc trách nhiệm của chủ thể nhận bảo lĩnh, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật, đồng thời đảm bảo mức phạt tiền có sự tương xứng với mức độ vi phạm và hậu quả nghiêm trọng có thể xảy ra (người được bảo lĩnh bỏ trốn, tiếp tục phạm tội…).
6. Thẩm quyền áp dụng biện pháp bảo lĩnh
Theo quy định hiện hành, những người có thẩm quyền áp dụng biện pháp bảo lĩnh bao gồm: Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp; Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân và Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự các cấp; Chánh án, Phó Chánh án Tòa án nhân dân và Chánh án, Phó Chánh án Tòa án quân sự các cấp; Thẩm phán chủ tọa phiên tòa; Hội đồng xét xử. Tuy nhiên, có ý kiến cho rằng, Chánh án, Phó Chánh án không có thẩm quyền áp dụng biện pháp bảo lĩnh. Bởi lẽ, quy định về nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể khi tiến hành giải quyết vụ án hình sự của Chánh án, Phó Chánh án liên quan đến thẩm quyền áp dụng biện pháp ngăn chặn, Điều 44 Bộ luậtTTHS năm 2015 chỉ đề cập đến thẩm quyền áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ biện pháp tạm giam, mà không đề cập đến thẩm quyền áp dụng biện pháp bảo lĩnh cũng như các biện pháp ngăn chặn khác. Thêm vào đó, quy định về thẩm quyền áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm và xét xử phúc thẩm đều trao quyền áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn nói chung và biện pháp bảo lĩnh nói riêng sau khi thụ lý vụ án cho Thẩm phán chủ tọa phiên tòa. Riêng đối với biện pháp tạm giam, thẩm quyền thuộc về Chánh án, Phó Chánh án tòa án.
Theo tác giả, Điều 44 Bộ luật TTHS năm 2015 đã quy định theo hướng mở, ngoài liệt kê các nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể, tại điểm e điều này còn quy định Chánh án, Phó Chánh án tòa án có thể “tiến hành hoạt động tố tụng khác theo quy định của Bộ luật TTHS”. Theo quy định hiện hành, từ thời điểm thụ lý vụ án, Chánh án tòa án có thời hạn 03 ngày để phân công thẩm phán chủ tọa phiên tòa giải quyết vụ án. Như vậy, mặc dù các quy định cụ thể trong giai đoạn xét xử đã trao quyền quyết định áp dụng biện pháp bảo lĩnh cho thẩm phán chủ tọa phiên tòa. Tuy nhiên, trong thời hạn này, vì chưa có thẩm phán chủ tọa phiên tòa nên quyền áp dụng biện pháp bảo lĩnh thuộc về Chánh án, Phó Chánh án tòa án. Trong trường hợp Chánh án, Phó Chánh án tòa án cũng là thẩm phán chủ tọa phiên tòa, thì đương nhiên có quyền áp dụng biện pháp bảo lĩnh theo các quy định của pháp luật TTHS.
Bài viết tham khảo: Chế định bảo lĩnh trong tố tụng hình sự và hướng hoàn thiện - THS. NGUYỄN THỊ THU HẰNG - Khoa Luật Hình sự, Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh.