1. Dấu hiệu xác định nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại

Tại khoản 1 Điều 601 Bộ luật dân sự năm 2015 kế thừa hoàn toàn khoản 1 Điều 623 Bộ luật dân sự trước đó về việc liệt kê các loại tài sản được coi là nguồn nguy hiểm cao độ. Cụ thể như sau:

"Điều 601. Bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra

1. Nguồn nguy hiểm cao độ bao gồm phương tiện giao thông vận tải cơ giới, hệ thống tải điện, nhà máy công nghiệp đang hoạt động, vũ khí, chất nổ, chất cháy, chất độc, chất phóng xạ, thú dữ và các nguồn nguy hiểm cao độ khác do pháp luật quy định.

Chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ phải vận hành, sử dụng, bảo quản, trông giữ, vận chuyển nguồn nguy hiểm cao độ theo đúng quy định của pháp luật..."

Theo hướng dẫn tại phần III NQ 03/2006, chỉ cần xác định nguồn gây thiệt hại là nguồn nguy hiểm cao độ thì sẽ áp dụng quy định về bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, bất kể thiệt hại do tự thân nguồn nguy hiểm cao độ gây ra hay do hành vi sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ gây ra. Điều này thể hiện ở những ví dụ được sử dụng đế minh họa cho các trường hợp liên quan đến trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra. Cụ thể để minh chứng cho trách nhiệm bồi thường của chủ sở hữu khi chuyển giao nguồn nguy hiểm cao độ cho người khác chiếm hữu, sử dụng không đúng quy định pháp luật, Nghị quyết 03/2006 sử dụng các ví dụ như: “chủ sở hữu biết người đó không có bằng lái xe ô tô, nhưng vẫn giao quyền chiếm hữu, sử dụng cho họ mà gây thiệt hại thì chủ sở hữu phải bồi thường thiệt hại”

Ví dụ: A la chủ sở hữu xe ô tô đã giao xe ô tô đó cho B. B lái xe ô tô tham gia giao thông đã gây ra tai nạn và gây thiệt hại. Nếu B chỉ được A thuê lái xe ô tô và được trả tiền công, có nghĩa B không phải là người chiếm hữu, sử dụng xe ô tô đó mà A vẫn chiếm hữu, sử dụng; do đó, A phải bồi thường thiệt hại”

Trong ví dụ này, trách nhiệm bồi thường thiệt hại không phải do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, mà là do việc sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại. Điều đó cho thấy, cách giải thích của NQ 03/2006 không phù hợp với bản chất của trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản nói chung, do nguồn nguy hiểm cao độ nói riêng gây ra. Sự nhầm lẫn này ảnh hưởng rất lớn đến việc xác định cơ sở pháp lý và chủ thể phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Cụ thể như sau:

Thứ nhất, về cơ sở pháp lý để áp dụng: Nếu thiệt hại do tự thân nguồn nguy hiểm cao độ gây ra thì cơ sở pháp lý được áp dụng để giải quyết vấn đề bồi thường thiệt hại là quy định tại Điều 601 Bộ luật dân sự năm 2015 (trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra); Nếu thiệt hại xảy ra là do người sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, tức là thiệt hại có liên quan đến nguồn nguy hiểm cao độ (không phải do tự thân nguồn nguy hiểm cao độ gây ra) thì cơ sở pháp lý được áp dụng là khoản 1 Điều 584 Bộ luật dân sự năm 2015 (cơ sở pháp lý của trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi gây ra nói chung).

Thứ hai, về chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại: Nếu thiệt hại do tự thân nguồn nguy hiểm cao độ gây ra thì chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại là chủ sở hữu, người chiếm hữu, người sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ; Nếu thiệt hại do hành vi sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại là người sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ hoặc các chủ thể có liên quan đến người sử dụng (Pháp nhân bồi thường thiệt hại do người của pháp nhân sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ gây ra thiệt hại trong thời gian thực hiện nhiệm vụ pháp nhân giao; cha mẹ bồi thường thiệt hại do con dưới 15 tuổi sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ gây ra thiệt hại,...).

Từ những phân tích trên cho thấy, để đảm bảo việc xác định chính xác cơ sở pháp lý cũng như chủ thể phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra cũng như do hành vi sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, cần phải chỉ ra những điều kiện để xác định có phải nguồn nguy hiểm cao độ gây ra hay không. Dựa trên cơ sở những vấn đề lý luận về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra, để xác định thiệt hại do nguồn nguy hiểm gây ra phải xác định được hai yếu tố:

Một là, phải có sự hiện diện của một loại nguồn nguy hiểm cao độ, tức là tài sản gây thiệt hại phải là nguồn nguy hiểm cao độ theo quy định tại khoản 1 Điêu 601 Bộ luật dân sự năm 2015;

Hai là, thiệt hại phải do tự thân hoạt động của nguồn nguy hiểm cao độ gầy ra (ví dụ xe ô tô đang di chuyển thì bị nổ lốp gây thiệt hại, xe ô tô đang xuống dốc thì đứt phanh dẫn đến tai nạn,...).

Thực tế cho thấy, tại thời điểm xảy ra thiệt hại, nguồn nguy hiểm cao độ có thể đang được vận hành bởi một chủ thể nhất định (ví dụ, ô tô đang được chủ sở hữu lái di chuyển trên đường). Nhưng nếu do hành vi sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ mà bất cẩn nên đã gây ra thiệt hại thì phải xác định đó là thiệt hại do người sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, tức là thiệt hại do hành vi gây ra và người thực hiện hành vi có thể có lỗi cố ý (cố tình lái xe lao vào người khác) hoặc có lỗi vô ý (vừa lái xe vừa nghe điện thoại).

 

2. Cơ sở pháp lý nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại

Theo điều 600 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định các điều luật riêng biệt để điều chỉnh vấn đề bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra trong từng trường hợp cụ thể.

Trong đó, cơ sở pháp lý của trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra được quy định tại Điều 623 của Bộ luật dân sự trước đây và phần III Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08 tháng 7 năm 2006 hướng dẫn áp dụng một số quy định củaBộ luật dân sự này về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng (sau đây gọi là NQ 03/2006).

Trong Bộ luật dân sự năm 2015, bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra được quy định tại Điều 601. Như vậy, ở thời điểm hiện tại lúc bấy giờ, khi Bộ luật dân sự năm 2015 chưa có hiệu lực, việc giải quyết tranh chấp liên quan đến bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra không chỉ căn cứ vào Điều 623 Bộ luật Dân sự, mà còn căn cứ vào hướng dẫn trong Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP. Song, những hướng dẫn trong Nghị quyết này còn nhiều vấn đề cần phải bàn luận để hoàn thiện hơn, và sẽ được trình bày trong các phần sau.

Trân trọng!

 

3. Nguồn nguy hiểm cao độ là gì?

Tại khoản 1 Điều 601 Bộ luật dân sự năm 2015 chỉ liệt kê những loại tài sản là nguồn nguy hiểm cao độ, mà không đưa ra khái niệm mang tính khái quát về nguồn nguy hiểm cao độ. Cụ thể điều luật như sau:

"Điều 601. Bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra

1. Nguồn nguy hiểm cao độ bao gồm phương tiện giao thông vận tải cơ giới, hệ thống tải điện, nhà máy công nghiệp đang hoạt động, vũ khí, chất nổ, chất cháy, chất độc, chất phóng xạ, thú dữ và các nguồn nguy hiểm cao độ khác do pháp luật quy định..."

Trong khái niệm này, nhà làm luật đã xây dựng khái niệm vẫn theo hướng liệt kê một số nguồn nguy hiểm cao độ, nhưng sự liệt kê lại không thống nhất về nội hàm của các thuật ngữ.

Ta có thể thấy rằng sự hoạt động của tài sản nói chung, hoạt động của nguồn nguy hiểm cao độ nói riêng có thể chịu sự tác động hoặc không chịu sự tác động của con người. Tức là ngay cả khi con người “không vận hành” hoặc “không cho chúng hoạt động” thì bản thân nguồn nguy hiểm cao độ vẫn có những hoạt động “tự thân” ở bên trong, cùng với tác động của môi trường tự nhiên vẫn có thể gây ra thiệt hại. Ví dụ, các chất cháy, chất nổ gặp điều kiện tự nhiên thuận lợi có thể tự bốc cháy, phát nổ mà không cần con người sử dụng bất cứ loại chất xúc tác nào tác động vào chúng.

 

4. Đặc điểm nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại

Nguồn nguy hiểm cao độ gắn với sự hoạt động của bất cứ loại tài sản nào thì cũng đều có những đặc điểm chung, sau đây ta sẽ đi phân tích từng đặc điểm của nó như sau:

Thứ nhất, đặc điểm bất ngờ, gây thiệt hại luôn luôn không báo trước , khó lường trước và có thể ngăn chặn

Đúng vậy, nguồn nguy hiểm cao độ luôn “tiềm ẩn nguy cơ gây ra thiệt hại bất ngờ cho con người hoặc gây thiệt hại về tài sản mà không phải bao giờ con người cũng có thể lường được trước và có thể ngăn chặn”.

Đặc điểm này cho thấy, con người “không thể kiểm soát được một cách tuyệt đối nguy cơ gây thiệt hại”. Hoạt động của nguồn nguy hiểm cao độ thường gây ra thiệt hại một cách bất ngờ, nhanh chóng. Mặc dù con người có thể nắm bắt được quy trình hoạt động của nguồn nguy hiểm cao độ (ví dụ sự vận hành của phương tiện giao thông cơ giới), nhưng hoạt động đó khi nào gây ra thiệt hại thì dường như con người khó có thể nhận biết, tức là việc gây thiệt hại thường xảy ra một cách đột ngột, bất ngờ (ví dụ thuốc súng, bom,... phát nổ sẽ gây thiệt hại ngay chứ không kéo dài một quá trình). Trong khi đó, hoạt động của các loại tài sản khác thường có quá trình gây thiệt hại kéo dài chứ không đột ngột như nguồn nguy hiểm cao độ (ví dụ, con trâu phá lúa phải trong một khoảng thời gian dài chứ không thể bước xuống ruộng là cả ruộng lúa sẽ bị hư hại).

Thứ hai, tần suất gây thiệt hại của nguồn nguy hiểm cao độ cao hơn các loại tài sản khác

Khi nói về tần suất, thực sự tần suất gây thiệt hại của nguồn nguy hiểm cao độ sẽ cao hơn các loại tài sản khác.

Các loại tài sản khác thường chỉ gây thiệt hại với tần suất thấp

Tuy nhiên, hoạt động của nguồn nguy hiểm cao độ thường xảy ra liên tục. Ví dụ các vụ cháy, nổ xăng dầu, ga, thuốc súng,... thường kéo dài liên tục cho đến khi các loại chất này được đặt cạnh nhau cháy hoặc nổ hết.

Thứ ba, hoạt động của nguồn nguy hiểm cao độ thường khó hạn chế, khắc phục

Thông thường thì các loại tài sản khác gây thiệt hại xong thì dẫn đến hậu quả ngay nên có thể dễ dàng khắc phục hậu quả, và thường thì việc gây thiệt hại sẽ không tiếp tục. Ngược lại, đối với nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại thì không những chỉ xảy ra những hậu quả trước mắt (hậu quả ngay), mà còn có thể gây ra những hậu quả tiếp theo mà con người khó có thể ngăn chặn.

Ví dụ: Chất phóng xạ đã nhiễm khó khử sạch, thuốc nổ đã nổ một phần thì khó có thể hạn chế phần còn lại không nổ,...

Thứ tư, có thể gây thiệt hại ngay cả khi đang có sử quản lý chặt chẽ của con người

Mặc dù nguồn nguy hiểm cao độ có được chủ sở hữu hoặc chủ thẻ khác quản lý chặt chẽ nhưng đôi khi nó vẫn xảy ra thiệt hại cho người khác. Do đó, đòi hỏi chủ sở hữu, người chiếm hữu, sử dụng không những phải quản lý chặt chẽ mà còn phải ngăn cản những người khác tiếp xúc với nguồn nguy hiểm cao độ. Trong Bộ luật Dân sự quy định trách nhiệm bồi thường của chủ sở hữu, người được giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ trong trường họp để nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật. Tức là việc quản lý không cẩn thận mà người khác có thể chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật thì chủ sở hữu, người quản lý, sử dụng cũng phải chịu trách nhiệm bồi thường. Ngoài ra, trách nhiệm bồi thường thiệt hại còn phát sinh ngay cả khi hoàn toàn do lỗi vô ý của người bị thiệt hại.

Hoạt động của nguồn nguy hiểm cao độ thường khó kiểm soát, có thể vượt khỏi sự quản lý của con người, nên pháp luật quy định trách nhiệm của chủ sở hữu, của người chiếm hữu, sử dụng tài sản rất nghiêm ngặt. Theo đó, các chủ thể có trách nhiệm quản lý không những phải quản lý chặt chẽ nguồn nguy hiểm cao độ, mà còn phải ngăn cản những người xung quanh tiếp xúc với nguồn nguy hiểm cao độ. Điều này thể hiện ở quy định loại trừ trách nhiệm bồi thường thiệt hại.

Tại khoản 3 Điều 601 Bộ luật dân sự năm 2015, nếu thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi cố ý của người bị thiệt hại thì chủ sở hữu, người chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ được loại trừ trách nhiệm bồi thường.

Như vậy, nếu người bị thiệt hại hoàn toàn có lỗi vô ý thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại không được loại trừ. Dựa vào những phân tích trên thấy rằng, chủ sở hữu, người chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ cao phải chịu trách nhiệm quản lý ở mức độ cao hơn so với trách nhiệm của chủ sở hữu, người chiếm hữu, sử dụng các loại tài sản khác. Điều này không phải vì nguồn nguy hiểm cao độ mang lại nhiều lợi ích hơn, mà do khả năng gây thiệt hại của nó cao hơn các loại tài sản khác.

 

5. Chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại

Tại khoản 1 Điều 601 Bộ luật dân sự năm 2015 nói về nguồn nguy hiểm cao độ. Cụ thể như sau:

"Điều 601. Bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra

1. Nguồn nguy hiểm cao độ bao gồm phương tiện giao thông vận tải cơ giới, hệ thống tải điện, nhà máy công nghiệp đang hoạt động, vũ khí, chất nổ, chất cháy, chất độc, chất phóng xạ, thú dữ và các nguồn nguy hiểm cao độ khác do pháp luật quy định.

Chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ phải vận hành, sử dụng, bảo quản, trông giữ, vận chuyển nguồn nguy hiểm cao độ theo đúng quy định của pháp luật..."

Theo đó, Chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra; nếu chủ sở hữu đã giao cho người khác chiếm hữu, sử dụng thì người này phải bồi thường, trừ trường hợp có thỏa thuận khác theo quy định của khoản 2 điều luật.

Nếu thiệt hại do hành vi sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại là người sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ hoặc các chủ thể có liên quan đến người sử dụng (Pháp nhân bồi thường thiệt hại do người của pháp nhân sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ gây ra thiệt hại trong thời gian thực hiện nhiệm vụ pháp nhân giao; cha mẹ bồi thường thiệt hại do con dưới 15 tuổi sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ gây ra thiệt hại,...).

Trân trọng!