1. Quy định của pháp luật về Quốc Hội

Theo quy định tại Điều 2 về chế độ chính trị nước ta, Hiến pháp 2013 quy định: Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam do nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân và giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức.

Như vậy quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân là một nguyên tắc Hiến định, nhà nước được nhân dân trao quyền để thực hiện việc quản lý và đảm bảo an ninh, trật tự. Nước Cộng hoạ xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước của nhân dân, do nhân dân làm chủ và mọi hoạt động của nhà nước trong đối nội và đối ngoại đều nhằm mục đích bảo vệ quyền lợi cho nhân dân. Điều 6 Hiến pháp 2013 cũng quy định, Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và thông qua các cơ quan khác của nhà nước.

Từ đây có thể khẳng định, Quốc hội và Uỷ ban nhân dân các cấp là cơ quan mà qua đó nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình.

Theo quy định tại Điều 69 Hiến pháp 2013, Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc Hội thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước. 

Nhiệm kỳ của mỗi khoá Quốc Hội là 5 năm. Và theo quy định tại Hiến pháp trong thời hạn 60 ngày trước khi Quốc Hội hết nhiệm kỳ, Quốc Hội khoá mới phải được bầu xong. Tuy nhiên, nếu trong trường hợp đặc biệt, khi có ít nhất 2/3 trên tổng số đại biểu Quốc Hội biểu quyết tán thành thì Quốc Hội quyết định rút ngắn hoặc kéo dài nhiệm kỳ của mình theo đề nghị của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội. Việc kéo dài nhiệm kỳ của một khoá Quốc Hội không được quá 12 tháng trừ trường hợp có chiến tranh.

Như vậy, Quốc Hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, là cơ quan đại biểu của nhân dân do nhân dân bầu ra và thay mặt nhân dân quyết định các vấn đề quan trong của đất nước.

 

2. Quy định của pháp luật về Hội đồng nhân dân các cấp

Điều 111 Hiến pháp 2013 nước Cộng hoà xã hội chue nghĩa Việt Nam đã quy định:

- Chính quyền địa phương tổ chức ở các đơn vị hành chính của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

- Cấp chính quyền địa phương gồm có Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân được tổ chức phù hợp với đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt do luật quy định.

Và tại Điều 113 Hiến pháp 2013 đã quy định rõ: 

- Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của Nhân dân, do Nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước Nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên.

- Hội đồng nhân dân quyết định các vấn đề của địa phương theo luật định; giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật ở địa phương và việc thực hiện nghị quyết của Hội đồng nhân dân.

Từ các quy định trên có thể thấy được vai trò to lớn của Hội đồng nhân dân các cấp, đây là cơ quan dân cử, đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, từ đó quyết định các vấn đề của địa phương theo quy định của pháp luật và thục hiện việc giám sát sự tuân theo Hiến pháp và pháp luật ở địa phương cũng như giám sát việc thự hiện các nghị quyế của Hội đồng nhân dân.

 

3. Các mốc thời gian về bầu cử Đại biểu Quốc Hội và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp cụ thể như thế nào?

Theo Hiến pháp 2013 quy định tại Điều 7, việc bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp được tiến hành theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín. 

Các mốc quan trong cần lưu ý khi tham gia bầu cử được được tổng hợp tại các quy định trong Luật bầu cử đại biểu Quốc hội, đại biểu hội đồng nhân dân các cấp, cụ thể như sau:

Mốc 1: 105 ngày trước ngày bầu cử: 105 ngày trước ngày bầu cử, theo quy định các việc phải làm đó là thành lập Uỷ ban bầu cử tỉnh, thành phố; thành lập Uỷ ban bầu cử cấp huyện, cấp xã.

Mốc 2: 95 ngày trước ngày bầu cử phải tiến hành Hội nghị hiệp thương lần thứ nhất.

Mốc 3: 85 - 90 ngày trước ngày bầu cử: Đại phương phải gửi danh sách đơn vị bầu cử ở địa phương mình về Hội đồng bầu cử quốc gia.

Môc 4: 80 ngày trước ngày bầu cử phải tiến hành công bố số đơn vị bầu cử; số đại biểu Quốc hội dự kiến được bầu cử ở mỗi đơn vị bầu cử. Ngoài ra, còn phải công bố đơn vị bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp; danh sách các đơn vị bầu cử; số lượng đại biểu dự kiến được bầu ở mỗi đơn vị bầu cử.

Mốc 5: 70 ngày trước ngày bầu cử phải thành lập Ban ầu cử Đại biểu Quốc hội; thành lập Ban bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, huyện, xã.

Mốc 6: 70 ngày trước ngày bầu cử, theo thời gian quy định phải kết thúc việc tiếp nhận, xem xét hồ sơ người ứng cử.

Mốc 7: 65 ngày trước ngày bầu cử phải tiến hành Hội nghị hiệp thương lần 2.

Mốc 8: 50 ngày trước ngày bầu cử phải thành lập Tổ bầu cử

Mốc 9: 40 ngày truowcsngayf bầu cử phải tiến hành niêm yết danh sách cử tri.

Mốc 10: 35 ngày trước ngày bầu cử phải tiến hành Hội nghị Hiệp thương lần thứ 3.

Mốc 11: Trước thời điểm bỏ phiếu 24 giờ phải kết thúc vận động bâu cử.

Mốc 12: Đến ngày bầu cử theo quy định tiến hành ầu cử đại biểu Quốc Hội và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp.

Mốc 13: 10 ngày sau ngày bầu cử phải tiến hành công bố kết quả bầu cử và danh sách những người trúng cử đại iểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, huyện, xã.

Mốc 12: 20 ngày sau ngày bầu cử phải tiến hành công bố kết quả bầu cử và danh sách những người trúng cử đại biểu Quốc hội.

Trêm đây là một số mốc thời gian quan trọng trong bầu cử đại biểu Quốc hội và bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp. Để nắm rõ hơn về vấn đề bầu cử đại biểu quốc hội, bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp, tham khảo bài viết: Quyền bầu cử, ứng của là gì? Nguyên tắc bầu cử đại biểu Quốc hội, bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp.

Có thể nó, bầu cử đại biểu Quốc Hội, bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp là cách thức mà người dân thực hiện quyền làm chủ của mình. Qua hoạt động bầu cử, người dân chọn ra những người mà mình tin tường, hau có thể hiểu là một cách thức trao quyền làm chủ của mình để đại biểu Quốc Hội và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp thay mặt mình thực hiện quyền và quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước. Đây cũng là cơ sở của một nền dân chủ hiện đại, là cơ sở hình thành nên bộ máy nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Bầu cử chính là cơ sở để tạo nên diễn đàn cho người dân được lựa chọn đường lối phát triển đất nước. 

Chế định bầu cử tại Việt Nam được hình thành từ rất sớm và ngày càng phát triển về quy mô điều chỉnh và phát triển theo xu hướng hợp nhất quy định bầu cử đại biểu Quốc hội và bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp. Tại Việt Nam, bầu cử được áp dụng đê hình thành Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp như đã phân tích ở trên. Mỗi cử tri bầu từ 2 - 3 đại biểu Quốc hội và từ 5 - 7 đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp. Mỗi đơn vị bầu cử là một đơn vị lãnh thổ với số lượng dân cư nhất định được phân định để cử tri bầu đại biểu. Cử tri là người dân có đủ các điều kiện để đi ầu cử theo quy định của pháp luật.

Mọi  thắc mắc liên quan có thể liên hệ 19006162 hoặc email lienhe@luatminhkhue.vnđể được giải đáp chi tiết

Trân trọng