1. Hành vi tố giác, báo tin tội phạm sai sự thật được hiểu là gì?

Nguồn thông tin về tội phạm theo quy định tại khoản 1 Điều 4 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đa dạng và bao gồm các phương thức sau đây:

(1) Tố giác và tin báo về tội phạm:

- Tố giác tội phạm được hiểu như việc một cá nhân phát hiện và tố cáo hành vi có dấu hiệu tội phạm trực tiếp với cơ quan có thẩm quyền.

- Tin báo về tội phạm bao gồm thông tin về sự việc có dấu hiệu tội phạm, được thông báo từ các cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân cho cơ quan có thẩm quyền. Ngoài ra, tin báo cũng có thể xuất phát từ các nguồn trên phương tiện thông tin đại chúng.

(2) Kiến nghị khởi tố:

- Kiến nghị khởi tố là quá trình mà các cơ quan nhà nước có thẩm quyền gửi đề xuất bằng văn bản, kèm theo chứng cứ và tài liệu liên quan tới Cơ quan điều tra hoặc Viện kiểm sát có thẩm quyền để đề xuất việc tiến hành điều tra, xem xét và xử lý vụ việc có dấu hiệu tội phạm.

Ngoài ra, theo Điều 144 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, quy định về tố giác và tin báo về tội phạm được ràng buộc như sau:

- Tố giác và tin báo về tội phạm có thể được thể hiện thông qua hình thức lời nói hoặc viết.

- Trường hợp một cá nhân tố giác hoặc thông báo sai sự thật về tội phạm, hậu quả tuỳ thuộc vào tính chất và mức độ vi phạm, có thể bị xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính, hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của luật.

Từ tố giác của cá nhân, thông báo của cơ quan, tổ chức và cá nhân đóng vai trò quan trọng trong việc xác định dấu hiệu tội phạm theo Điều 143 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, là cơ sở để xác định sự có mặt của hành vi vi phạm pháp luật và khởi đầu quá trình điều tra, xem xét tố tụng.

Theo đó, hành vi tố giác và báo tin tội phạm sai sự thật được hiểu là việc cung cấp thông tin hoặc tố cáo về một hành vi có dấu hiệu tội phạm mà không phản ánh chính xác sự thật. Điều này bao gồm việc cố ý bịa đặt thông tin sai hoặc tố cáo người khác đã phạm tội một cách không chính xác, sau đó đưa thông tin này cho cơ quan có thẩm quyền, như cơ quan điều tra hoặc tòa án.

Việc bịa đặt thông tin hoặc tố cáo sai sự thật về tội phạm với cơ quan có thẩm quyền cũng được coi là một hành vi tố giác tội phạm và báo tin tội phạm sai sự thật. Tuy nhiên, hành vi này vi phạm luật và có thể bị xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của luật, tùy theo tính chất và mức độ vi phạm.

 

2. Cán bộ, công chức, viên chức cố ý tố giác, báo tin giả về tội phạm có bị xử lý kỷ luật?

Nhằm hạn chế tình trạng tùy tiện tố giác và thông báo giả về tội phạm, pháp luật đã áp dụng một loạt biện pháp xử lý đối với hành vi này. Trong thời gian gần đây, đặc biệt là trước, trong và sau kỳ nghỉ Tết Nguyên đán, tình hình an ninh và trật tự đã đối mặt với nhiều thách thức phức tạp và nhạy cảm. Trong tình hình này, cơ quan quản lý, đặc biệt là các cơ quan có thẩm quyền trong việc giải quyết các vấn đề liên quan đã tiến hành mạnh mẽ và triển khai nhiều biện pháp nhằm đảm bảo an ninh trật tự. Đáng chú ý trong các thành công của lực lượng thực thi pháp luật là sự kịp thời của việc phát hiện, thông báo và hỗ trợ từ cộng đồng dân cư trong việc tố giác vụ việc có dấu hiệu vi phạm pháp luật.

Tuy nhiên, bên cạnh việc báo cáo và tố giác theo quy định pháp luật, thời gian gần đây đã xuất hiện một số hành vi cố ý tố giác và thông báo giả về tội phạm. Điều này đã ảnh hưởng đến hiệu quả của công tác thực thi công vụ của các cơ quan có thẩm quyền. Vì vậy, từ quan điểm pháp lý, những cá nhân có hành vi cố ý thông báo và tố giác giả về tội phạm sẽ bị xử lý tùy theo mức độ và tính chất vi phạm. Hình phạt có thể bao gồm kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính và trong một số trường hợp nghiêm trọng, cả truy cứu trách nhiệm hình sự. Người có hành vi cố ý tố giác và thông báo giả về tội phạm có thể phải bồi thường thiệt hại cho người bị ảnh hưởng bởi hành vi này.

Bên cạnh các hình thức xử phạt hành chính và truy cứu trách nhiệm hình sự, luật cũng quy định cách xử lý đối với trường hợp các cán bộ, công chức và viên chức vi phạm bằng cách cố ý tố giác hoặc thông báo giả về tội phạm. Theo Điều 23 của Nghị định 31/2019/NĐ-CP, nếu các cán bộ này biết rõ việc tố cáo không đúng sự thật nhưng vẫn tiếp tục làm việc này nhiều lần, họ sẽ bị xử lý tùy theo mức độ và tính chất vi phạm, bao gồm cả việc bị xử lý kỷ luật hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự. Do đó, cán bộ, công chức và viên chức cố ý tố giác và thông báo giả về tội phạm có thể phải đối mặt với các hình phạt kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính và thậm chí cả truy cứu trách nhiệm hình sự, tùy thuộc vào mức độ vi phạm.

Tóm lại, trong trường hợp hành vi tố giác không chính xác của cán bộ, công chức và viên chức không đạt đến mức độ để truy cứu trách nhiệm hình sự, họ vẫn có thể bị xử lý kỷ luật theo quy định. Ngoài ra, dù không bị xử phạt hình sự, họ cũng có thể bị xử phạt vi phạm hành chính và phải bồi thường thiệt hại cho người bị ảnh hưởng.

 

3. Những hình thức xử lý khác ngoài hình thức xử lý kỷ luật đối với cán bộ, công chức, viên chức tố giác sai sự thật

Đã trình bày ở trên, việc áp dụng biện pháp kỷ luật đối với cán bộ, công chức và viên chức có hành vi tố giác không chính xác không loại trừ khả năng bị xử phạt hành chính và phải bồi thường thiệt hại.

Liên quan đến xử phạt hành chính, theo điểm c, khoản 3, Điều 7, Nghị định 144/2021/NĐ-CP đã quy định rõ ràng về mức phạt tiền từ 2 triệu đồng đến 3 triệu đồng đối với hành vi thông báo thông tin giả, không đúng sự thật đến các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền. Do đó, đối với hành vi cố ý tố giác và thông báo giả, cá nhân có thể phải chịu mức phạt lên đến 3 triệu đồng, trong khi tổ chức có thể phải chịu phạt lên đến 6 triệu đồng.

Bên cạnh các biện pháp xử lý và xử phạt đã được nêu ra, người có hành vi cố ý tố giác và thông báo giả về tội phạm cũng có thể phải bồi thường thiệt hại cho người bị tố giác hoặc thông báo giả. Theo quy định tại khoản 1 Điều 584 của Bộ luật Dân sự 2015, người vi phạm có hành vi xâm phạm đến danh dự, nhân phẩm và uy tín của người khác, gây ra thiệt hại thì phải chịu trách nhiệm bồi thường. Điều này áp dụng trừ khi có quy định khác tại Bộ luật Dân sự hoặc các luật khác.

Như đã thảo luận, người cố ý tố giác và thông báo giả về tội phạm, khi xâm phạm đến danh dự, nhân phẩm và uy tín của người bị tố giác hoặc thông báo giả, có thể phải chịu trách nhiệm bồi thường nếu người bị ảnh hưởng yêu cầu. Nội dung này được quy định rõ ràng tại Điều 592 của Bộ luật Dân sự 2015. Sự thiệt hại do danh dự, nhân phẩm và uy tín bị xâm phạm bao gồm các khoản:

- Các chi phí hợp lý để giới hạn, khắc phục thiệt hại.

- Thu nhập thực tế mất đi hoặc giảm sút.

- Các thiệt hại khác theo quy định của pháp luật.

Người chịu trách nhiệm bồi thường trong trường hợp danh dự, nhân phẩm và uy tín của người khác bị xâm phạm sẽ phải bồi thường cho các khoản thiệt hại nêu trên và một khoản bù đắp tổn thất về tinh thần mà người bị xâm phạm phải chịu. Mức tiền bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần sẽ được thỏa thuận giữa các bên hoặc được quy định tối đa không quá mười lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định cho một người có danh dự, nhân phẩm và uy tín bị xâm phạm.

Như vậy, qua những quy định trên, có thể thấy rằng việc áp dụng biện pháp kỷ luật, xử phạt hành chính và bồi thường thiệt hại là những biện pháp nhằm đảm bảo trật tự pháp lý và bảo vệ danh dự, nhân phẩm và uy tín của mỗi cá nhân trong xã hội.

Bài viết liên quan: Không tố giác tội phạm là gì? Hình phạt tội không tố giác tội phạm

Luật Minh Khuê xin tiếp nhận yêu cầu tư vấn của quý khách hàng thông qua hotline: 1900.6162 hoặc qua email: lienhe@luatminhkhue.vn. Xin trân trọng cảm ơn!