Khó khăn hạn chế về tiếp nhận giải quyết tố giác tin báo về tội phạm
Theo quy định tại khoản 1 Điều 107 Hiến pháp năm 2013, Viện kiểm sát có nhiệm vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. Trong đó, kiểm sát việc tiếp nhận và giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm cùng với kiến nghị khởi tố là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng, bởi đây là điểm khởi đầu của quá trình tố tụng hình sự, giúp hạn chế tối đa tình trạng oan sai và bỏ lọt tội phạm. Tuy nhiên, trong thực tiễn công tác này vẫn gặp phải một số khó khăn và vướng mắc.
* Khó khăn trong việc phân định các khái niệm về tố giác, tin báo tội phạm và vi phạm hành chính
Theo Điều 144 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, các khái niệm về tố giác, tin báo tội phạm và kiến nghị khởi tố được định nghĩa như sau:
- Tố giác về tội phạm là hành động của cá nhân phát hiện và tố cáo hành vi có dấu hiệu tội phạm với cơ quan có thẩm quyền.
- Tin báo về tội phạm là thông tin về vụ việc có dấu hiệu tội phạm do cơ quan, tổ chức, cá nhân thông báo với cơ quan có thẩm quyền hoặc qua phương tiện thông tin đại chúng.
- Kiến nghị khởi tố là hành động của cơ quan nhà nước có thẩm quyền gửi văn bản kèm theo chứng cứ, tài liệu liên quan cho cơ quan điều tra hoặc Viện kiểm sát để xem xét và xử lý vụ việc.
Điều 2 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 định nghĩa vi phạm hành chính là hành vi có lỗi của cá nhân hoặc tổ chức vi phạm quy định về quản lý nhà nước mà chưa đến mức xử lý hình sự. Điều này dẫn đến sự phân định giữa tố giác, tin báo về tội phạm và vi phạm hành chính gặp khó khăn.
Việc xác định hành vi là vi phạm hành chính hay có dấu hiệu tội phạm gặp vướng mắc do Viện kiểm sát không có chức năng kiểm sát trong lĩnh vực xử lý vi phạm hành chính. Điều này dẫn đến khó khăn trong việc xử lý các trường hợp cụ thể.
* Vướng mắc trong việc kiểm sát việc thu thập tài liệu trong quá trình điều tra
Theo Điều 160 Bộ luật Tố tụng hình sự, Viện kiểm sát có quyền kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố. Tuy nhiên, Bộ luật không quy định rõ ràng việc cơ quan điều tra phải kịp thời trao đổi hoặc chuyển toàn bộ các chứng cứ, tài liệu thu thập được cho kiểm sát viên. Điều này dẫn đến tình trạng sau khi nhận hồ sơ giải quyết tin báo, kiểm sát viên phải mất thời gian nghiên cứu, và nếu có vi phạm trong quá trình điều tra, việc khắc phục có thể gặp khó khăn do chứng cứ có thể không được thu thập đầy đủ.
* Kiểm sát việc tiếp nhận và giải quyết tố giác, tin báo tội phạm tại cấp xã, phường
Theo Thông tư liên tịch số 01/2021/TTLT-BCA-BQP-BTC-BNNPTNT-VKSNDTC ngày 29/11/2021, các Công an xã, phường, thị trấn khi tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm cần thực hiện các bước như lập biên bản, lấy lời khai, kiểm tra hiện trường và chuyển hồ sơ đến Cơ quan điều tra cấp huyện trong thời hạn 07 ngày. Tuy nhiên, chưa có quy định yêu cầu các đơn vị cấp xã, phường phải thông báo cho Viện kiểm sát để thực hiện chức năng kiểm sát việc thụ lý nguồn tin.
* Khó khăn trong việc áp dụng các tình tiết định tính của Bộ luật Hình sự
Bộ luật Hình sự năm 2015 hiện hành chứa nhiều điều luật với các tình tiết mang tính định tính, chưa được hướng dẫn cụ thể, dẫn đến khó khăn trong việc áp dụng đồng nhất. Các tình tiết như “gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội” (Điều 318 BLHS về tội Gây rối trật tự công cộng; Điều 319 BLHS về tội Xâm phạm thi thể, mồ mả, hài cốt) hay các yếu tố “bỏ trốn” và “cố tình không trả lại tài sản” (Điều 175 BLHS về tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản) vẫn còn nhiều mơ hồ trong thực tiễn.
Chẳng hạn, trong các vụ án liên quan đến tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, việc xác định yếu tố “bỏ trốn” để cấu thành tội phạm gặp nhiều khó khăn, đặc biệt khi đối tượng đã vay mượn tài sản nhưng không còn cư trú tại nơi đã vay, và sau đó quay về thanh toán nợ. Việc xác định rõ ràng thế nào là “bỏ trốn” nhằm chiếm đoạt tài sản là rất quan trọng để quyết định có khởi tố hay không. Do đó, cần có hướng dẫn cụ thể từ Liên ngành để đảm bảo việc áp dụng pháp luật là nhất quán và công bằng.
* Vướng mắc trong áp dụng khoản 3 Điều 29 Bộ luật Hình sự
Khoản 3 Điều 29 BLHS quy định về việc miễn trách nhiệm hình sự trong các vụ việc tội phạm nghiêm trọng do lỗi vô ý, đặc biệt là trong các vụ tai nạn giao thông mà đã bồi thường và không còn yêu cầu truy cứu. Hướng dẫn hiện hành từ Liên ngành tư pháp Trung ương, như Công văn 998/V14 ngày 31/12/2019 của Viện KSND tối cao và các công văn khác, khẳng định rằng việc miễn trách nhiệm hình sự phải được thể hiện bằng bản án hoặc quyết định chính thức của cơ quan thẩm quyền. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy, nhiều vụ việc đã thỏa mãn điều kiện miễn trách nhiệm hình sự nhưng lại yêu cầu phải khởi tố và sau đó đình chỉ vụ án, gây lãng phí thời gian và công sức. Cần xem xét và điều chỉnh hướng dẫn để phù hợp hơn với thực tiễn, giảm thiểu các thủ tục không cần thiết và nâng cao hiệu quả xử lý các vụ án.
* Khó khăn trong việc giải quyết các vụ việc tạm đình chỉ
Theo Công văn 2010/HDLN ngày 18/5/2021 của Liên ngành tư pháp Trung ương, các vụ việc tạm đình chỉ cần được rà soát lại căn cứ trước khi phục hồi giải quyết. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, việc xác định căn cứ để tạm đình chỉ hay phục hồi thường yêu cầu nhiều hoạt động xác minh, như triệu tập, lấy lời khai và gửi văn bản đôn đốc, dẫn đến việc chậm trễ và thiếu chính xác trong việc ra quyết định. Một số đơn vị chỉ làm thủ tục chuyển từ tạm dừng xác minh sang tạm đình chỉ mà không thực hiện đầy đủ các hoạt động xác minh cần thiết. Cần có sự điều chỉnh và hướng dẫn cụ thể hơn để đảm bảo các quyết định được đưa ra đúng thời hạn và phù hợp với quy định.
* Vướng mắc trong việc dẫn giải người bị tố giác và người bị kiến nghị khởi tố
Theo điểm c, khoản 1 Điều 127 BLTTHS năm 2015, biện pháp dẫn giải chỉ được áp dụng khi người bị tố giác hoặc bị kiến nghị khởi tố đã liên quan đến hành vi phạm tội và vụ án đã được khởi tố. Tuy nhiên, trong thực tiễn, nhiều trường hợp người bị tố giác không xuất hiện làm việc, gây khó khăn trong việc áp dụng biện pháp dẫn giải. Mặc dù Công văn 2010/HDLN ngày 18/5/2021 hướng dẫn việc truy tìm và triệu tập người bị tố giác không rõ địa chỉ, vẫn cần có sự hướng dẫn chi tiết và chặt chẽ hơn để đảm bảo biện pháp dẫn giải được áp dụng hiệu quả, đúng quy định và không bỏ sót vụ việc.
* Khó khăn trong công tác bảo quản, xử lý vật chứng, đồ vật, tài liệu
Công tác bảo quản và xử lý vật chứng, đồ vật, tài liệu trong các vụ án hiện nay đang đối mặt với nhiều vấn đề phức tạp. Các quy định hiện hành về việc xử lý vật chứng theo Điều 106 BLTTHS, đặc biệt là các trường hợp tịch thu xung quỹ, tiêu hủy, trả lại hoặc bán, vẫn thiếu hướng dẫn cụ thể. Điều này đã dẫn đến tình trạng một số lượng lớn vật chứng phải lưu kho, làm gia tăng chi phí bảo quản, đặc biệt đối với các vụ án có vật chứng thu giữ số lượng lớn như hàng giả, ma túy, hoặc các vật chứng cần bảo quản đặc biệt như vàng bạc, kim khí quý, chất cháy nổ, chất độc hại.
Việc thiếu hướng dẫn chi tiết về việc tiêu hủy vật chứng sớm trong giai đoạn điều tra, truy tố hay xử lý các vật chứng mau hỏng, khó bảo quản đang tạo ra nhiều khó khăn. Cần thiết phải có quy định rõ ràng để xác định thời điểm và cách thức tiêu hủy hoặc bán vật chứng nhằm giảm thiểu chi phí bảo quản và đảm bảo hiệu quả xử lý.
Thông tư liên tịch số 01/2020/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BQP-BNN&PTNT-BTC-BTP ngày 01/6/2020, dù đã cung cấp một số hướng dẫn, nhưng vẫn chưa đưa ra quy định cụ thể về việc xử lý vật chứng trong các vụ án không khởi tố hoặc đã đình chỉ do hết thời hiệu truy cứu. Một số vụ án gặp khó khăn trong việc thành lập hội đồng tiêu hủy, do các quy định hiện hành chủ yếu áp dụng cho các vụ vi phạm hành chính, không hoàn toàn phù hợp với các trường hợp không khởi tố. Kết quả là nhiều hồ sơ chưa thể kết thúc vì chưa hoàn tất thủ tục tiêu hủy vật chứng, tạo áp lực lớn đối với các cơ quan điều tra.
* Vấn đề trong công tác giám định và định giá tài sản
Công tác giám định và định giá tài sản vẫn tồn tại nhiều bất cập, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến tiến độ giải quyết các vụ việc. Dù thời hạn giám định đã được quy định trong Bộ luật Tố tụng Hình sự, việc chậm trễ trong việc đưa ra kết luận giám định vẫn diễn ra thường xuyên. Đặc biệt, giám định pháp y tâm thần gặp nhiều vướng mắc như thời gian ban hành kết luận kéo dài, yêu cầu nhiều thủ tục, và kết luận giám định không phản ánh chính xác tình trạng bệnh của đối tượng.
Ngoài ra, trong các vụ án liên quan đến tội phạm xâm phạm an ninh quốc gia, việc giám định các tài liệu tuyên truyền chống phá Nhà nước thiếu quy định thống nhất về chi phí. Điều này gây khó khăn trong việc thanh toán và chi trả cho cơ quan tiến hành tố tụng, làm giảm hiệu quả xử lý vụ án.
* Khó khăn trong phối hợp cung cấp thông tin
Công tác phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức liên quan như ngân hàng, tổ chức tín dụng, các đơn vị cung cấp dịch vụ viễn thông và thanh toán điện tử, cũng như các công ty quản lý mạng xã hội, trong việc cung cấp tài liệu, chứng cứ còn nhiều hạn chế. Nhiều vụ việc bị kéo dài thời gian xác minh hoặc phải tạm đình chỉ giải quyết vì chờ phản hồi từ các tổ chức này. Hiện chưa có quy định cụ thể về trách nhiệm phối hợp cung cấp thông tin, dẫn đến tình trạng phần lớn các vụ việc đang bị tạm đình chỉ vì thiếu sự hợp tác từ các bên liên quan.
Để khắc phục các vấn đề này, cần có sự điều chỉnh và bổ sung các quy định hiện hành, hướng dẫn cụ thể về việc bảo quản và xử lý vật chứng, tăng cường quy trình giám định và định giá tài sản, cũng như thiết lập cơ chế phối hợp chặt chẽ hơn giữa các cơ quan và tổ chức trong việc cung cấp thông tin phục vụ công tác điều tra và giải quyết vụ án. Việc này sẽ giúp nâng cao hiệu quả và tiến độ trong công tác tố tụng, đảm bảo công lý được thực thi một cách công bằng và hiệu quả.
Ngoài ra, có thể tham khảo: Thẩm quyền tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố. Còn khúc mắc, liên hệ 1900.6162 hoặc gửi email tới: lienhe@luatminhkhue.vn để được hỗ trợ. Xin cảm ơn.