1. Căn cứ công nhận diện tích đất ở đối với đất sử dụng trước năm 1975
Theo quy định tại Khoản 2 Điều 103 Luật Đất đai 2013 quy định, thửa đất ở có vườn ao được hình thành trước ngày 18/12/1980 và người sử dụng đất có một trong các loại giấy tờ về quyền sử dụng đất quy định tại các Khoản 1, 2 và 3 Điều 100 của Luật này thì diện tích đất ở được xác định theo giấy tờ đó.
Theo khoản 2, Điều 24 Nghị định 43/2014/NĐ-CP quy định: loại giấy tờ làm căn cứ xác định diện tích đất ở theo quy định tại các Khoản 2, 3 và 4 Điều 103 của Luật Đất đai là giấy tờ có thể hiện một hoặc nhiều mục đích nhưng trong đó có mục đích để làm nhà ở, đất ở hoặc thổ cư.
Mặc khác, theo Điểm b Khoản 2 Điều 18 Nghị định 43/2014/NĐ-CP, bảng tổng hợp các trường hợp sử dụng đất hợp pháp do UBND xã lập theo Chỉ thị 299-TTg năm 1980 là giấy tờ khác tại Điểm g Khoản 1 Điều 100 Luật đất đai 2013.
Như vậy, diện tích đất ở đối với đất sử dụng trước năm 1975 được xác định theo bảng tổng hợp các trường hợp sử dụng đất do UBND xã lập theo Chị thị 299-TTg năm 1980.
Về ký hiệu loại đất là chữ “T”:
Theo quy định tại Quyết định số 56-ĐKTK ngày 5/11/1981 của Tổng cục Quản lý ruộng đất ban hành bản quy định về thủ tục đăng ký thống kê ruộng đất trong cả nước thì loại ruộng đất ghi trong sổ đăng ký ruộng đất và sổ mục kê thể hiện bằng ký hiệu theo quy định tại bản tổng hợp thống kê ruộng đất.
Loại đất có ký hiệu chữ "T" của bản tổng hợp thống kê ruộng đất ban hành kèm theo Quyết định số 56-ĐKTK được xác định là “đất khu vực thổ cư" - là đất xây dựng trong các khu dân cư thành thị và nông thôn, trừ thổ canh, ao hồ, đường đi lại trong thôn xóm đã đo đạc tách ra; bao gồm: Đất ở và đất xây dựng các công trình phục vụ lợi ích toàn dân trong các lĩnh vực văn hóa, y tế giáo dục, thể dục thể thao, nghỉ mát, du lịch; các trụ sở cơ quan, đoàn thể, tôn giáo, những kho tàng, cơ sở nông lâm nghiệp như chuồng trại chăn nuôi, trạm sửa chữa...
Từ ngày 12/10/1989, biểu thống kê diện tích đất đai được quy định lại theo Quyết định số 237/QĐ-LB ngày 03/8/1989 của Liên Tổng cục Quản lý ruộng đất và Tổng cục Thống kê; trong đó, loại “đất khu vực thổ cư” trước đây đã được quy định tách thành các loại "đất khu dân cư" (gồm đất ở thành thị và đất ở nông thôn) và “đất chuyên dùng” (bao gồm đất xây dựng, đất đường giao thông, đất thủy lợi...) được quy định mã ký hiệu phục vụ thống kê, kiểm kê đất.
Đến ngày 26/8/1993, Tổng cục Quản lý ruộng đất ban hành Công văn số 547/ĐC chỉ đạo áp dụng tạm thời quy định thành lập bản đồ địa chính và đến ngày 27/7/1995, Tổng cục Địa chính ban hành Quyết định số 499-QĐ/ĐC quy định mẫu sổ địa chính, sổ mục kê đất, sổ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, sổ theo dõi biến động đất đai; trong đó, quy định loại đất với "mục đích để ở" ký hiệu bằng chữ "T", đất xây dựng từng loại công trình có ký hiệu riêng.
2. Những hạn chế, bấp cập trong cấp GCNQSDĐ
Trong quá trình thực hiện việc cấp GCNQSD đất, tình trạng vi phạm thời hạn giải quyết, cấp đất không đúng diện tích theo thực tế (thừa hoặc thiếu), không đúng đối tượng, xác định thời hạn, nguồn gốc sử dụng đất không chính xác; có trường hợp cấp giấy nhưng không có ranh giới, mốc giới cụ thể, không có trích đo vị trí thửa đất; xác định nghĩa vụ tài chính, miễn/giảm tiền đối với người sử dụng đất, thu phí, lệ phí liên quan chưa đúng quy định vẫn xảy ra nhiều.
Bên cạnh đó, việc thực hiện quy trình xét giao đất chưa thật sự công khai, minh bạch; hoạt động của hội đồng tư vấn xét cấp đất, xác định nguồn gốc đất tại một số nơi còn bất cập. Giữa quản lý, sử dụng đất của người dân trên thực tế với hồ sơ quản lý của cơ quan nhà nước chưa thống nhất làm phát sinh đơn thư khiếu nại, tố cáo, phản ánh về hành vi hành chính trong quá trình cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Cá biệt có trường hợp cấp giấy làm phát sinh đơn thư khiếu nại, khởi kiện kéo dài làm ảnh hưởng đến quyền lợi chính đáng của người sử dụng đất. Tại nhiều nơi có tình trạng chính quyền đã cấp GCNQSD đất rừng cho hộ gia đình theo quy định pháp luật trước đây khi thực hiện các dự án về phát triển rừng (cấp bìa trắng để thực hiện dự án PAM từ năm 1993 trở về trước) sau đó cấp lại GCNQSD đất cho người khác sử dụng đất (người thứ hai) nhưng không thu hồi giấy chứng nhận đã cấp trước đó nên đã xảy ra nhiều tranh chấp, yêu cầu về hủy giấy CNQSD rừng và đất rừng. Chỉ tính từ năm 2011 đến nay, tòa án 2 cấp đã xét xử hủy 55 giấy CNQSD đất, ở cấp tỉnh trong số 59 vụ án hành chính, dân sự thụ lý đã chấp nhận hủy 33 giấy CNQSD đất (60%).
Trách nhiệm và sự phối hợp của các cơ quan trong tiếp nhận, giải quyết, hướng dẫn, thẩm định hồ sơ, cung cấp thông tin về quá trình sử dụng đất có vai trò rất quan trọng. Tuy nhiên, sự phối hợp này chưa tốt dẫn đến tình trạng sai sót, phải trả hồ sơ giữa các cấp khiến việc giải quyết kéo dài, người dân phải đi lại nhiều lần. Công tác xử lý, giải quyết những trường hợp tồn tại, những trường hợp vi phạm pháp luật đất đai như giao đất trái thẩm quyền, xây dựng trái phép, chuyển mục đích sử dụng đất trái quy định lại thiếu sự phối hợp giữa các phòng, ban chuyên môn cấp huyện và UBND cấp xã.
Số giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã ký nhưng chưa giao đến hộ gia đình cá nhân còn nhiều, trong đó có nhiều nguyên nhân như: sai sót về số liệu, người sử dụng đất chưa có điều kiện thực hiện nghĩa vụ tài chính (tiền sử dụng đất, lệ phí trước bạ,..). Còn số lượng lớn hồ sơ đề nghị cấp giấy đối với hộ gia đình chưa được giải quyết do nguồn gốc đất phức tạp như đất lấn chiếm, đất tranh chấp, xây dựng nhà trái phép, chuyển mục đích sử dụng đất không đúng quy định, do thay đổi các quy định pháp luật liên quan về điều kiện được công nhận đất ở (giữa luật đất đai 2003 và luật 2013),...
3. Nguyên nhân gây bất cập khi cấp GCNQSDĐ
Về khách quan, đó là kinh phí phục vụ cho công tác đo đạc, lập hồ sơ địa chính, chỉnh lý biến động đất đai phân bổ chậm và chưa đáp ứng theo yêu cầu. Bên cạnh đó, sự thiếu ổn định, nhất quán của chính sách pháp luật về đất đai dẫn đến việc thực hiện pháp luật về đất đai nói chung và cấp GCNQSD đất nói riêng còn lúng túng ảnh hưởng lớn đến tiến độ cấp giấy CNQSD đất. Một số quy định của pháp luật liên quan đến cấp giấy CNQSD đất chưa phù hợp thực tế, chưa khuyến khích người sử dụng đất đăng ký đất đai theo quy định.
Về chủ quan, việc lãnh đạo, chỉ đạo quản lý, điều hành của chính quyền các cấp trên lĩnh vực đất đai có lúc, có nơi thiếu chặt chẽ, chưa đáp ứng yêu cầu, chưa nhận thức đầy đủ về tầm quan trọng của việc hoàn thành công tác cấp GCNQSD đất. Hệ thống tổ chức và đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý nhà nước về đất đai được tổ chức theo mô hình mới còn bất cập; nhiều cán bộ làm công tác quản lý nhà nước về đất đai chưa được đào tạo, tập huấn, cập nhật thường xuyên các quy định pháp luật liên quan về đất đai nên thực hiện còn lúng túng, chậm trễ hoặc thực hiện không đúng quy định. Đa số ở cấp xã cán bộ làm công tác địa chính còn bất cập về trình độ, năng lực chuyên môn, thiếu kinh nghiệm và am hiểu về lịch sử, nguồn gốc, quá trình sử dụng đất; một số cán bộ còn có biểu hiện gây khó khăn, sách nhiễu trong quá trình giải quyết các thủ tục xin cấp giấy.
Công tác phối hợp giữa các cấp chính quyền, giữa các cơ quan chuyên môn cùng một cấp trong giải quyết hồ sơ đề nghị cấp GCNQSD đất, nhất là các hồ sơ tồn đọng còn hạn chế; phối hợp giải quyết các vướng mắc phát sinh đối với việc giao đất lâm nghiệp theo dự án 1/10.000 chưa tốt. Người dân, chủ sử dụng đất chưa ý thức được quyền lợi của việc được cấp giấy CNQSD đất, chưa tự giác thực hiện trách nhiệm, chậm trễ trong kê khai, đăng ký; nhiều trường hợp còn biểu hiện trông chờ vào sự hỗ trợ của nhà nước trong thực hiện nghĩa vụ tài chính liên quan.
Để tham khảo thêm thông tin về vấn đề này, quý khách hàng có thể tìm hiểu tại bài viết: Đất sử dụng trước năm 1980 không có giấy tờ có được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ? của Luật Minh Khuê.
Như vậy trên đây là toàn bộ thông tin về Căn cứ công nhận diện tích đất ở đối với đất sử dụng trước 1975 mà Công ty Luật Minh Khuê muốn gửi đến quý khách mang tính tham khảo. Nếu quý khách còn vướng mắc về vấn đề trên hoặc mọi vấn đề pháp lý khác, quý khách hãy vui lòng liên hệ trực tiếp với chúng tôi qua Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến theo số điện thoại 1900.6162 để được Luật sư tư vấn pháp luật trực tiếp qua tổng đài kịp thời hỗ trợ và giải đáp mọi thắc mắc.
Nếu quý khách cần báo giá dịch vụ pháp lý thì quý khách có thể gửi yêu cầu báo phí dịch vụ đến địa chỉ email: lienhe@luatminhkhue.vn để nhận được thông tin sớm nhất! Rất mong nhận được sự hợp tác và tin tưởng của quý khách! Luật Minh Khuê xin trân trọng cảm ơn!