Mục lục bài viết
1. Hiểu thế nào về bồi thường thiệt hại và quy định pháp luật liên quan đến trách nhiệm bồi thường thiệt hại của nhà nước?
Bồi thường thiệt hại, một khái niệm quan trọng trong lĩnh vực pháp lý, được điều chỉnh cụ thể trong Điều 13 của Bộ Luật Dân Sự năm 2015. Theo quy định này, khi cá nhân hoặc tổ chức pháp nhân chịu tổn thất về quyền lợi dân sự do hành vi vi phạm của bên khác, họ có quyền yêu cầu bồi thường toàn bộ thiệt hại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc sự điều chỉnh của pháp luật.
Từ các quy định trên, ta có thể hiểu rằng bồi thường thiệt hại không chỉ là một nghĩa vụ pháp lý mà còn là một biện pháp để đảm bảo rằng bên gây ra thiệt hại phải chịu trách nhiệm về tất cả các tổn thất vật chất và tinh thần gây ra cho bên bị tổn thất. Điều này không chỉ giúp phục hồi cho bên bị tổn thất mà còn thúc đẩy tính công bằng và công lý trong xã hội.
Ngoài ra, Theo Điều 1 Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước 2017 thì nhà nước có trách nhiệm bồi thường của Nhà nước đối với cá nhân, tổ chức bị thiệt hại do người thi hành công vụ gây ra trong hoạt động quản lý hành chính, tố tụng và thi hành án. Trong đó, thiệt hại có thể gồm thiệt hại về vật chất, thiệt hại về tinh thần do người thi hành công vụ gây ra thuộc phạm vi trách nhiệm bồi thường của Nhà nước theo quy định.
Thiệt hại có thể bao gồm cả thiệt hại về tài sản và thiệt hại về tinh thần mà người thi hành công vụ gây ra, nằm trong phạm vi trách nhiệm bồi thường của Nhà nước theo quy định.
Quy định liên quan đến trách nhiệm bồi thường của Nhà nước xác định rõ các đối tượng có quyền yêu cầu bồi thường, bao gồm cả người bị thiệt hại, người thừa kế của họ, và người đại diện theo pháp luật.
Nguyên tắc bồi thường của Nhà nước phải được thực hiện kịp thời, công khai, bình đẳng, và trên cơ sở thiện chí, trung thực, và đúng pháp luật. Quy trình giải quyết yêu cầu bồi thường phải tuân thủ các quy định của Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017.
Thời hiệu yêu cầu bồi thường được xác định, và có những trường hợp ngoại lệ, như khi có sự kiện bất khả kháng hay khi người bị thiệt hại không có khả năng thực hiện quyền yêu cầu bồi thường.
Căn cứ xác định trách nhiệm bồi thường của Nhà nước bao gồm việc xác định hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ gây thiệt hại, sự tồn tại của thiệt hại thực tế, và mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và thiệt hại.
Người yêu cầu bồi thường cần phải chứng minh những thông tin có liên quan và tham gia đầy đủ vào quá trình giải quyết yêu cầu. Họ cũng có quyền khiếu nại và tham gia vào các quá trình tố tụng liên quan đến việc giải quyết yêu cầu bồi thường.
Người thi hành công vụ gây thiệt hại có nghĩa vụ cung cấp thông tin đầy đủ và trung thực, tham gia vào quá trình giải quyết yêu cầu bồi thường và hoàn trả cho ngân sách nhà nước các khoản tiền đã bồi thường theo quy định.
Đó là một số điểm chính được quy định trong Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017, nhằm đảm bảo tính minh bạch, công bằng và trách nhiệm trong quá trình giải quyết các vụ việc liên quan đến trách nhiệm bồi thường của Nhà nước.
2. Cây xanh ngã đổ gây thiệt hại có thuộc trách nhiệm bồi thường của nhà nước?
Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017 xác định rõ phạm vi điều chỉnh, nhằm quy định trách nhiệm của Nhà nước đối với cá nhân và tổ chức bị thiệt hại do hành vi của người thi hành công vụ trong các lĩnh vực quản lý hành chính, tố tụng và thi hành án. Đồng thời, luật cũng chỉ định về quyền và nghĩa vụ của các bên liên quan, cơ quan giải quyết bồi thường, thủ tục giải quyết yêu cầu bồi thường, phục hồi danh dự, kinh phí bồi thường, trách nhiệm hoàn trả, cũng như trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong công tác bồi thường nhà nước.
Điều 2 của Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước 2017 chỉ định rõ đối tượng được bồi thường, đó là cá nhân và tổ chức bị thiệt hại về cả vật chất và tinh thần do người thi hành công vụ gây ra, như quy định trong luật.
Dựa trên quy định trên, việc cây xanh gây thiệt hại không thuộc phạm vi trách nhiệm bồi thường của nhà nước, vì không phải là do hành vi của người thi hành công vụ trong các lĩnh vực quản lý hành chính, tố tụng và thi hành án. Thay vào đó, bồi thường cho thiệt hại gây ra bởi việc cây xanh ngã đổ là một trường hợp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
3. Cây xanh ngã đổ gây thiệt hại thì ai sẽ là người chịu trách nhiệm bồi thường?
Theo Điều 604 của Bộ luật Dân sự năm 2015, người sở hữu hoặc chiếm hữu cây cối cũng như người được giao quản lý có trách nhiệm bồi thường thiệt hại gây ra bởi cây cối. Điều này áp dụng dựa trên quy định của Điều 584, nơi mà trách nhiệm bồi thường thiệt hại được xác định theo các hành vi xâm phạm đến các quyền và lợi ích hợp pháp của người khác. Tuy nhiên, người gây thiệt hại không phải chịu trách nhiệm nếu có sự kiện bất khả kháng hoặc nếu thiệt hại là kết quả của lỗi từ phía bên bị thiệt hại.
Trong trường hợp cây xanh gây ra thiệt hại, việc yêu cầu bồi thường căn cứ vào quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015. Tuy nhiên, để xác định liệu việc cây xanh ngã đổ có thuộc trường hợp bất khả kháng hay không, cần phải xem xét việc Công ty quản lý cây xanh đã thực hiện các biện pháp khắc phục cần thiết hay không, như cắt tỉa cây trước khi có dự báo mưa bão, hoặc chặt hạ những cây có nguy cơ gãy đổ.
Nếu Công ty đã thực hiện đúng các biện pháp cần thiết nhưng vẫn xảy ra thiệt hại, có thể xem xét đó là sự kiện bất khả kháng. Tuy nhiên, nếu Công ty không tuân thủ quy trình kỹ thuật và không đảm bảo an toàn, họ sẽ phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo quy định của luật.
Do đó, Công ty quản lý cây xanh phải chịu trách nhiệm bảo đảm an toàn và chăm sóc cây theo quy trình kỹ thuật. Nếu không tuân thủ, khi cây xanh gây ra thiệt hại, họ sẽ phải chịu trách nhiệm bồi thường cho thiệt hại đã gây ra.
Ngoài ra, để đảm bảo tính công bằng và minh bạch trong việc giải quyết các vụ việc liên quan đến cây xanh gây thiệt hại, việc xác định trách nhiệm và quyền lợi của các bên cần phải dựa trên cơ sở pháp lý rõ ràng và công bằng. Điều này đồng nghĩa với việc các cơ quan chức năng phải thực hiện công tác giám sát và kiểm tra định kỳ để đảm bảo rằng các quy định về trồng, chăm sóc cây xanh đô thị đều được tuân thủ đúng đắn.
Hơn nữa, để đối phó hiệu quả với các tình huống xấu có thể xảy ra do cây xanh gây ra, cần phải thiết lập các quy định rõ ràng và cụ thể về việc kiểm tra, bảo trì, và sửa chữa các cây xanh trong các khu vực đô thị. Điều này không chỉ giúp giảm thiểu nguy cơ gây ra thiệt hại mà còn tăng cường sự an toàn và trách nhiệm của các bên liên quan. Việc thúc đẩy sự nhận thức cộng đồng về vai trò quan trọng của việc quản lý cây xanh không chỉ là vấn đề của các tổ chức hay cá nhân có liên quan mà còn là trách nhiệm của toàn bộ cộng đồng. Việc tạo ra một môi trường sống xanh, sạch, đẹp là lợi ích chung của tất cả mọi người, và chỉ thông qua sự hợp tác và nhận thức của cộng đồng mới có thể đạt được mục tiêu này.
Như vậy, Công ty quản lý cây xanh phải có trách nhiệm chăm sóc, cắt tỉa cây phải tuân thủ quy trình kỹ thuật đồng thời phải có biện pháp bảo đảm an toàn cho người, phương tiện và công trình. Nếu không đảm bảo các vấn đề trên thì khi cây xanh ngã đổ gây thiệt hại thì công ty quản lý cây xanh phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
Trên đây là toàn bộ thông tin mà chúng tôi đưa ra về vấn đề này, quý khách có thể tham khảo thêm bài viết liên quan cùng chủ đề của Luật Minh Khuê như Quy định về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng theo Bộ luật dân sự 2015 Nếu quý khách có nhu cầu cần tư vấn pháp luật liên quan thì hãy liên hệ với chúng tôi qua hotline 19006162 hoặc email lienhe@luatminhkhue.vn. Trân trọng./.