1. Chung thẩm là gì?
Xét xử chung thẩm là quá trình tòa án đưa ra quyết định cuối cùng đối với vụ án đã trải qua hai cấp xét xử (cấp thứ nhất là giải quyết theo thủ tục của tòa án và cấp thứ hai là kháng cáo). Trong trường hợp cụ thể này, đương sự sẽ không có thẩm quyền kháng cáo bản án, quyết định đã giải quyết theo thủ tục phúc thẩm.
2. Giá trị phán quyết của trọng tài chung thẩm
Chúng ta biết rằng pháp luật nước ta luôn tôn trọng thỏa thuận của các bên, kể cả khi giải quyết tranh chấp thông qua trọng tài thương mại hay tòa án giải quyết. Dù vậy, chúng tôi biết rằng thỏa thuận này giữa các bên có thể không phù hợp với luật pháp hoặc các tiêu chuẩn đạo đức, nhưng chúng tôi tin tưởng rằng thỏa thuận này vẫn đáng tôn trọng.
Tại Khoản 5 Điều 60 Luật trọng tài thương mại 2010 có quy định như sau : “Phán quyết trọng tài là chung thẩm và có hiệu lực kể từ ngày ban hành“.
Như vậy, căn cứ theo quy định được nêu ra ở trên, ta có thể nhận thấy rằng phán quyết của trọng tài là chung thẩm nên các tranh chấp của các đương sự khi đã được giải quyết thì sẽ không được quyền kháng cáo và xem xét lại bởi một trong số tất cả các cấp hoặc cơ quan xét xử nào khác (trừ các trường hợp hủy phán quyết trọng tài theo quy định pháp luật). Phán quyết trọng tài sẽ có hiệu lực kể từ ngày phán quyết này được ban hành, tuy nhiên thực tế rằng phán quyết trọng tài thực chất không quy định rõ thời hạn thi hành phán quyết, nên chủ thể là bên được thi hành phán quyết trọng tài thực tế sẽ chỉ được yêu cầu cưỡng chế thi hành phán quyết đó sau khi thời hạn thi hành phán quyết trọng tài đã kết thúc mà chủ thể là bên bị thi hành không thi hành hoặc thi hành không đầy đủ.
Khi Hội đồng Trọng tài ra phán quyết, các bên liên quan (gọi là các đương sự) sẽ không thể ra tòa để kiện nhau nữa, trừ trường hợp một bên làm đơn khởi kiện ra Tòa. Nếu Tòa án hủy phán quyết của Trọng tài viên vì những căn cứ cụ thể được quy định tại Điều 68 Luật Trọng tài Thương mại 2010 thì phán quyết đó coi như bị hủy.
Song song với đó thì ta có thể thấy rằng, thực tế trong giai đoạn hiện nay, đối với vấn đề Tố tụng trọng tài giữa cơ quan Tòa án với trung tâm trọng tài thì có một số thẩm phán không căn cứ cụ thể vào Điều 415 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 quy định : “Thủ tục giải quyết các vụ việc liên quan đến hoạt động của trọng tài thương mại tại Việt Nam được thực hiện theo quy định của pháp luật về Trọng tài thương mại Việt Nam” và Điều 12 Luật Trọng tài thương mại năm 2010, mà thực tế rằng các thẩm phán này đã tư duy theo lối quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự dẫn đến huỷ phán quyết trọng tài không đúng.
Một hội đồng trọng tài được thành lập bởi những người rất có kinh nghiệm trong lĩnh vực pháp luật. Họ thường sẽ có các chuyên gia có thể giúp họ quyết định vấn đề đang được đề cập. Tuy nhiên, một số thành viên của hội đồng trọng tài cũng sẽ quen thuộc với các thủ tục pháp lý và có thể tập trung hơn vào các chi tiết cụ thể của tranh chấp. Điều này có thể dẫn đến lỗi thủ tục.
Có nhiều thẩm phán khác nhau giải quyết yêu cầu hủy phán quyết trọng tài. Một số thẩm phán này có ít kinh nghiệm về trọng tài nên họ có những ý kiến khác nhau về cách giải quyết tranh chấp.
Trong tố tụng toà án, nếu có tranh chấp có thể xét xử một lần (theo thủ tục sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm) thì trong tố tụng trọng tài có nguyên tắc tranh chấp là xét xử một lần, nghĩa là phán quyết của trọng tài là chung thẩm và các bên phải chấp nhận ngay phán quyết đó, trừ trường hợp Tòa án hủy phán quyết trọng tài. Nguyên tắc này bắt nguồn từ bản chất đặc trưng của tố tụng trọng tài là nhân danh ý chí và quyền tự định đoạt của các bên đương sự. Các bên đương sự đã lựa chọn và tín nhiệm người phán xử cho vấn đề giữa hai bên thì phải phục tùng quyết định đó.
Nguyên tắc này giúp đẩy nhanh quá trình thi hành phán quyết trọng tài, giúp một bên không phải cố tình kéo dài thời gian thi hành và giúp bên kia khắc phục nhanh chóng. Điều này có thể xảy ra khi bên đó gây thiệt hại về tiền hoặc tài sản thuộc sở hữu của bên kia.
Khi bạn có tranh chấp với người khác, bạn có thể muốn cố gắng giải quyết vấn đề thông qua trọng tài quốc tế. Đây là một quá trình mà hai hoặc nhiều người cùng nhau tìm ra giải pháp cho vấn đề. Nếu mọi người liên quan đồng ý thông qua trọng tài, họ có khả năng mong đợi một phán quyết trọng tài. Tuy nhiên, nếu các bên không thể đi đến thỏa thuận trong quá trình giải quyết tranh chấp, trọng tài có thể không đưa ra phán quyết.
Các bên cũng mong muốn, tùy thuộc vào quyền kháng cáo, phán quyết là chung thẩm và có tính ràng buộc ngay lập tức đối với các bên đương sự. Đây chính là một trong các nội dung cơ bản và quan trọng nhất thuộc ấn bản “Trọng tài Quốc tế” do Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam phối hợp cùng Tổ chức Tài chính Quốc tế và các đơn vị chuyên trách phối hợp thực hiện.
Khi ai đó có bất đồng với người khác, họ đồng ý giải quyết bất đồng bằng trọng tài. Nếu họ không đồng ý với quyết định của trọng tài, họ có quyền kháng cáo, nhưng quyết định cuối cùng đã được đưa ra và nó có giá trị ràng buộc đối với cả hai bên.
Phán quyết là kết quả của một quá trình trọng tài đã hoàn tất. Tuy nhiên, nếu đạt được thỏa thuận giải quyết, phán quyết dựa trên thỏa thuận đó có thể được gọi là phán quyết đồng thuận hoặc phán quyết dựa trên các điều khoản của thỏa thuận.
Nếu ai đó không xuất hiện trong phiên điều trần, sự vắng mặt của người đó có thể được coi là một bản án chống lại họ. Điều này có nghĩa là tòa án có thể cấp cho người đó ít tiền hơn hoặc những lợi ích khác mà lẽ ra họ sẽ có nếu người đó thực sự tham dự phiên điều trần.
Thời hạn phản đối phán quyết của trọng tài bắt đầu từ ngày phán quyết được ban hành. Khi phán quyết chung thẩm đã được tạo lập, không một bên nào có thể phản đối với bất kỳ nội dung nào đã được thể hiện trong phán quyết này, nếu nội dung lập được dựa trên một phán quyết từng phần không bị phản đối trước đó. Hơn nữa, chỉ có một phán quyết mới cho thi hành và thỏa mãn các điều kiện để được công nhận theo các công ước quốc tế có liên quan, bao gồm công ước New York.
Phán quyết trọng tài có thể được gọi là "quyết định" hoặc "lệnh" tùy thuộc vào mức độ cụ thể của tiêu đề do hội đồng trọng tài đưa ra. Ví dụ, Tòa phúc thẩm Paris và Tòa án Liên bang Hoa Kỳ đều gọi một số phán quyết trọng tài là "bản án" thuộc danh mục "quyết định pháp lý". Điều này có thể ảnh hưởng đến cách các phán quyết được xử lý trong quá trình hủy bỏ hoặc công nhận và thi hành tại các tòa án quốc gia.
Hội đồng trọng tài không thể đảm bảo rằng phán quyết của mình sẽ được thi hành ở bất kỳ quốc gia nào chọn thi hành phán quyết đó, nhưng hội đồng trọng tài phải nỗ lực hết sức để phán quyết có hiệu lực thi hành cao nhất có thể. Để một phán quyết trọng tài được coi là một quyết định trọng tài "có hiệu lực thi hành quốc tế", hội đồng trọng tài phải có thẩm quyền đối với tất cả các vấn đề mà hội đồng đưa ra.
Hội đồng trọng tài phải tuân theo tất cả các quy tắc quản lý trọng tài, bao gồm các quy tắc về cách phân chia chi phí và nơi diễn ra trọng tài. Họ cũng phải ký và ghi ngày vào phán quyết, đồng thời giao phán quyết đó cho các bên theo luật pháp của quốc gia nơi diễn ra trọng tài. Nếu phán quyết của hội đồng trọng tài không được quốc gia nơi ra phán quyết công nhận thì phán quyết đó vẫn có thể được thi hành ở các quốc gia khác.
Vừa rồi Luật Minh Khuê đã trình bày nội dung về Chung thẩm là gì? Giá trị phán quyết trọng tài chung thẩm. Hy vọng đây sẽ là những thông tin hữu ích đối với quý bạn đọc.