Cướp tài sản là một tội danh được quy định trong Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Đây là một tội danh có tính chất nghiêm trọng cao, xâm phạm trực tiếp quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ. Luật Minh Khuê phân tích các quy định pháp luật có liên quan đến tội cướp tài sản và hình phạt có liên quan.
1. Khái quát về các tội xâm phạm sở hữu?
Các tội xâm phạm sở hữu được quy định trong chương XVI của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017, này gồm 13 tội:
- Tội cướp tài sản (Điều 168)
- Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản (Điều 169)
- Tội cưỡng đoạt tài sản (Điều 170)
- Tội cướp giật tài sản (Điều 171)
- Tội công nhiên chiếm đoạt tài sản (Điều 172)
- Tội trộm cắp tài sản (Điều 173)
- Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 174)
- Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (Điều 175)
- Tội chiếm giữ trái phép tài sản (Điều 176)
- Tội sử dụng trái phép tài sản (Điều 177)
- Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản (Điều 178)
- Tội thiếu trách nhiệm gây thiệt hại đến tài sản của Nhà nước, cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp (Điều 179)
- Tội vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản (Điều 180)
So sánh các Bộ luật hình sự trước đây và hiện nay trong việc quy định nhóm tội xâm phạm sở hữu có thể thấy các tội danh thuộc nhóm tội phạm này không có sự thay đổi nhiều. Các tội xâm phạm sở hữu có thể được phân thành 2 nhóm là nhóm các tội xâm phạm sở hữu có mục đích tư lợi (10 tội, được quy định tại các điều từ Điều 168 đến Điều 177) và nhóm các tội xâm phạm sở hữu không có mục đích tư lợi (3 tội, được quy định tại các điều từ Điều 178 đến Điều 180). Nhóm các tội xâm phạm sở hữu có mục đích tư lợi gồm 8 tội có tính chiếm đoạt và 2 tội không có tính chiếm đoạt.
Như vậy, các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt chiếm phần lớn trong các tội xâm phạm sở hữu và là các tội có tính đặc trưng cho các tội xâm phạm sở hữu nên được xếp đầu tiên trong chương các tội xâm phạm sở hữu và theo trật tự giảm dần của tính chất nguy hiểm cho xã hội.
Luật sư tư vấn pháp luật Hình sự, gọi: 1900.6162
2. Tội cướp tài sản được quy định như thế nào?
Tội cướp tài sản được quy định tại Điều 168 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi 2017, cụ thể như sau:
Điều 168. Tội cướp tài sản
1. Người nào dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:
a) Có tổ chức;
b) Có tính chất chuyên nghiệp;
c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30%;
d) Sử dụng vũ khí, phương tiện hoặc thủ đoạn nguy hiểm khác;
đ) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;
e) Phạm tội đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu hoặc người không có khả năng tự vệ;
g) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
h) Tái phạm nguy hiểm.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm:
a) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;
b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%;
c) Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh.
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 18 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân:
a) Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên;
b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của 01 người mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 31% trở lên;
c) Làm chết người;
d) Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp.
5. Người chuẩn bị phạm tội này, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
6. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt quản chế, cấm cư trú từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.
Như vậy, có thể thấy khung hình phạt thấp nhất của tội cướp tài sản là 03 năm tù và khung hình phạt cao nhất của tội cướp tài sản là tù chung thân.
3. Bình luận về cấu thành tội cướp tài sản
Điều luật gồm 6 khoản. Trong đó, khoản 1 quy định các dấu hiệu pháp lý và khung hình phạt cơ bản của tội cướp tài sản; các khoản 2,3,4 quy định các trường hợp phạm tội tăng nặng; khoản 5 quy định về trường hợp chuẩn bị phạm tội và khoản 6 quy định khung hình phạt bổ sung.
Hành vi cướp tài sản xâm hại đồng thời hai quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ, đó là quan hệ nhân thân và quan hệ sở hữu. Việc xếp tội cướp tài sản vào chương “Các tội xâm phạm sở hữu” là xuất phát từ quan điểm cho rằng mục đích chính của người phạm tội là nhằm vào sở hữu và việc xâm hại quan hệ nhân thân xét về mặt nào đó chỉ là phương tiện để đạt mục đích chính đó.
3.1 Dấu hiệu chủ thể của tội phạm
Chủ thể của tội cướp tài sản được quy định là chủ thể bình thường và theo Điều 12 BLHS là người từ đủ 14 tuổi trở lên.
3.2 Dấu hiệu hành vi khách quan của tội phạm
Điều luật quy định 03 dạng hành vi khách quan của tội cướp tài sản. Đó là:
- Hành vi dùng vũ lực;
- Hành vi đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc;
- Hành vi (khác) làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được.
Hành vi dùng vũ lực được hiểu là hành vi dùng sức mạnh (có hoặc không có công cụ, phương tiện phạm tội) tác động vào người khác để họ không thể hoặc không dám chống cự lại việc chiếm đoạt. Hành vi dùng vũ lực phải là hành vi nhằm vào con người. Những hành vi không nhằm vào con người đều không phải là hành vi dùng vũ lực theo quy định của điều luật. Người bị hành vi dùng vũ lực tác động có thể là chủ tài sản, là người có trách nhiệm quản lý hay bảo vệ tài sản nhưng cũng có thể là người bất kỳ mà chủ thể thực hiện hành vi dùng vũ lực cho rằng người này đang hoặc có khả năng sẽ ngăn cản việc chiếm đoạt của mình. Hành vi dùng vũ lực có thể là đánh, chém, trói, V.V..
Hành vi đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc được hiểu là hành vi (lời nói hoặc bằng cử chỉ hoặc cả hai) dọa sẽ dùng vũ lực ngay tức khắc nếu chống cự lại việc chiếm đoạt. Vũ lực đe dọa sẽ thực hiện có thể nhằm vào chính người bị đe dọa nhưng cũng có thể nhằm vào người khác có quan hệ thân thích với người bị đe dọa. Dấu hiệu “ngay tức khắc" ở đây có ý nghĩa quan trọng để phân biệt hành vi đe dọa dùng vũ lực ở tội cướp với hành vi đe dọa “sẽ” dùng vũ lực ở tội cưỡng đoạt tài sản. Dấu hiệu này vừa dùng để chỉ sự nhanh chỏng về mặt thời gian (xảy ra ngay lập tức) và vừa dùng để chỉ sự mãnh liệt của hành vi đe dọa. Hành vi đe dọa dùng vũ lực ở tội cướp tài sản có tính chất mãnh liệt nhằm làm cho người bị đe dọa thấy rằng vũ lực sẽ xảy ra ngay, họ không hoặc khó có điều kiện tránh khỏi. Sự đe dọa này có khả năng làm tê liệt ý chí của người bị đe dọa. Để đánh giá hành vi đe dọa dùng vũ lực có tính chất như vậy hay không và qua đó khẳng định có phải là tội cướp tài sản hay không, cần dựa vào những tình tiết sau:
- Nội dung và hình thức của hành vi đe dọa (dọa làm gì? thái độ đe dọa như thế nào?);
- Tương quan giữa bên đe dọa và bên bị đe dọa;
- Hoàn cảnh không gian và thời gian;
- Tình hình trật tự xã hội nơi và lúc xảy ra hành vi phạm tội V.V..
Dấu hiệu ngay tức khắc chỉ đòi hỏi chủ thể đã có hành vi, cử chỉ, thái độ thể hiện ra bên ngoài là dùng vũ lực ngay tức khắc mà không đòi hỏi chủ thể phải thực sự có ý định dùng vũ lực ngay tức khắc cũng như phải có đủ điều kiện để dùng vũ lực ngay tức khắc. Như vậy, những trường hợp chỉ làm ra vẻ dùng vũ lực ngay tức khắc nhưng không có ý định hoặc không có điều kiện dùng vũ lực ngay tức khắc cũng đã thỏa mãn dấu hiệu “ngay tức khắc” của tội cướp tài sản. Ví dụ: Dùng súng giả dọa bắn chết ngay.
Hành vi (khác) làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được là hành vi có khả năng làm cho người bị tấn công không thể ngăn cản được việc chiếm đoạt như hành vi sử dụng thuốc gây mê, thuốc ngủ V.V.. Những hành vi này được coi là cùng tính chất như hành vi dùng vũ lực và hành vi đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc vì cùng có khả năng làm cho người bị tấn công không thể ngăn cản được việc chiếm đoạt.
3.3 Dấu hiệu lỗi của chủ thể
Cả ba dạng hành vi khách quan được nêu trên đều thể hiện lỗi của chủ thể thực hiện là lỗi cố ý. Khi thực hiện, chủ thể đều biết rõ tính chất của hành vi mà mình thực hiện.
3.4 Dấu hiệu mục đích phạm tội
Mục đích phạm tội được quy định là mục đích chiếm đoạt tài sản. Khi thực hiện hành vi dùng vũ lực; đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể kháng cự được, chủ thể thực hiện có mục đích chiếm đoạt tài sản.
Trong thực tế, có thể có trường hợp chủ thể đã chiếm đoạt được tài sản bằng thủ đoạn không phải là thủ đoạn của tội cướp tài sản như bằng thủ đoạn của tội trộm cắp tài sản hoặc của tội cướp giật tài sản... nhưng ngay sau đó đã bị phát hiện và người phạm tội đã tấn công lại’ người ngăn cản (bằng những thủ đoạn của tội cướp) nhằm giữ bằng được tài sản vừa chiếm đoạt trước đó. Mục đích giữ bằng được tài sản vừa chiếm đoạt được xét về bản chất là để có thể tiếp tục việc chiếm đoạt. Do vậy, mục đích này cũng được coi là dạng đặc biệt của mục đích chiếm đoạt tài sản và thực tiễn xét xử từ trước đến nay coi trường hợp này là trường hợp chuyển hoá từ một số hình thức chiếm đoạt tài sản thành cướp tài sản. Như vậy, những hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hay hành vi làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm mục đích giữ tài sản vừa chiếm đoạt được cũng bị coi là cấu thành tội cướp tài sản.
Do “chiếm đoạt” chỉ được quy định là mục đích nên việc xác định thời điểm tội phạm hoàn thành của tội cướp tài sản chỉ phụ thuộc vào việc chủ thể đã thực hiện một trong ba dạng hành vi được mô tả trong điều luật như trình bày trên mà không phụ thuộc vào việc chủ thể đã thực hiện được hành vi chiếm đoạt tài sản hay chưa.
Để phân biệt giữa mục đích chiếm đoạt và hành vi chiếm đoạt với chiếm đoạt được cần có sự thống nhất về nhận thức khái niệm chiếm đoạt. Hành vi chiếm đoạt, xét về mặt khách quan là hành vi làm cho chủ tài sản mất hẳn khả năng thực hiện quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản của mình và tạo cho người chiếm đoạt có thể thực hiện được việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản đó. Như vậy, chiếm đoạt xét về mặt thực tế là quá trình vừa làm cho chủ tài sản mất tài sản vừa tạo cho người chiếm đoạt có tài sản đó. Quá trình này xét về mặt pháp lý không làm cho chủ sở hữu mất quyền sở hữu của mình mà chỉ làm mất khả năng thực tế thực hiện các quyền cụ thể của quyền sở hữu. Hành vi chiếm đoạt với nội dung là quá trình như vậy được thể hiện ở những dạng hành vi cụ thể khác nhau, tùy thuộc vào mối quan hệ cụ thể giữa người chiếm đoạt với tài sản chiếm đoạt cũng như vào hình thức chiếm đoạt cụ thể. Tài sản là đối tượng tác động của hành vi chiếm đoạt đòi hỏi phải có đặc điểm là còn nằm trong sự chiếm hữu, sự quản lý của chủ tài sản. Tài sản đã thoát li khỏi sự chiếm hữu, sự quản lý của chủ tài sản (tài sản thất lạc) thì không còn là đối tượng của hành vi chiếm đoạt. Chỉ khi tài sản còn đang do chủ tài sản chiếm hữu thì mới có thể nói đến hành vi chiếm đoạt, mới nói đến hành vi làm mất khả năng chiếm hữu của chủ tài sản. Chủ tài sản ở đây được hiểu là chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp tài sản.
Như vậy, về nguyên tắc, tài sản là đối tượng tác động của hành vi chiếm đoạt khi còn đang trong sự chiếm hữu của chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp. Trong trường hợp cá biệt, tài sản đang trong sự chiếm hữu bất hợp pháp của chủ thể đã chiếm đoạt tài sản này cũng có thể bị người khác chiếm đoạt. Khi đó, chủ tài sản còn được hiểu chỉ là người đang chiếm hữu tài sản. Xét về mặt chủ quan, lỗi của người có hành vi chiếm đoạt là lỗi cố ý trực tiếp. Người thực hiện hành vi chiếm đoạt biết tài sản chiếm đoạt là tài sản đang có người chiếm hữu, quản Ịý nhưng vẫn mong muốn biến tài sản đó thành tài sản của mình. Những trường hợp lầm tưởng là tài sản của mình hoặc là tài sản không có người chiếm hữu, quản lý đều không phải là trường hợp có hành vi chiếm đoạt. Cũng như hành vi khác, hành vi chiếm đoạt tồn tại theo quá trình. Quá trình đó trước khi xảy ra đã tồn tại trong ý thức chủ quan dưới hình thức ý định hay mục đích chiếm đoạt. Hành vi chiếm đoạt coi là bắt đầu khi người phạm tội bắt đầu thực hiện việc làm mất khả năng chiếm hữu của chủ tài sản, để tạo khả năng đó cho mình. Khi người phạm tội đã làm chủ được tài sản chiếm đoạt thì lúc đó hành vi chiếm đoạt được coi là đã hoàn thành, người phạm tội coi là đã chiếm đoạt được tài sản.
Khoản 1 của điều luật quy định khung hình phạt cơ bản có mức phạt tù từ 03 năm đến 10 năm.
Khoản 2 của điều luật quy định khung hình phạt tăng nặng thứ nhất có mức phạt tù từ 07 năm đến 15 năm được áp dụng cho trường hợp phạm tội có một trong các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng sau:
- Có tổ chức: Đây là trường hợp cướp tài sản được thực hiện dưới hình thức đồng phạm đồng phạm mà trong đó có sự câu kết chặt chẽ giữa những người đồng phạm.
- Có tính chất chuyên nghiệp: Đây là trường hợp người phạm tội đã liên tiếp phạm tội cướp tài sản và coi việc phạm tội này như là nguồn thu nhập chính.
- Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11 % đến 30%: Đây là trường hợp người phạm tội cướp tài sản đã cố ý hoặc vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ người bị tấn công với tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11 % trở lên nhưng dưới mức 31% (vì đến mức này sẽ thuộc khung hình phạt tăng nặng thứ hai được quy định tại khoản 3 của điều luật).
- Sử dụng vũ khí, phương tiện hoặc thủ đoạn nguy hiểm khác: Đây là trường hợp phạm tội cướp tài sản mà chủ thể đã sử dụng vũ khí hoặc phương tiện, thủ đoạn nguy hiểm. Trong đó, vũ khí được hiểu là vũ khí quân dụng, súng săn, vũ khí thô sơ (dao găm, kiếm, giáo, mác, thương, lưỡi lê, đao, mã tấu, côn, quả đấm, quả chùy, cung, nỏ, phi tiêu), vũ khí thể thao và vũ khí khác có tính năng, tác dụng tương tự (được chế tạo, sản xuất thủ công hoặc công nghiệp, không theo tiêu chuẩn kỹ thuật, thiết kế của nhà sản xuất hợp pháp, có khả năng gây sát thương, nguy hại cho tính mạng, sức khỏe của con người, phá hủy kết cẩu vật chất tương tự như vũ khí quân dụng, súng săn, vũ khí thô sơ, vũ khí thể thao). Phương tiện, thủ đoạn phạm tội được coi là phương tiện, thủ đoạn nguy hiểm khi có tính chất như tính chất của vũ khí nói trên, nghĩa là có khả năng dễ dàng gây nguy hiểm đến tính mạng người bị tấn công. Ví dụ: Dùng thuốc độc để đầu độc,...
- Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50 triệu đồng đến dưới 200 triệu đồng: Đây là trường hợp phạm tội cướp tài sản mà tài sản chiếm đoạt trị giá từ 50 triệu đồng trở lên nhưng phải dưới mức 200 triệu đồng (vì đến mức này sẽ thuộc khung hình phạt tăng nặng thứ hai được quy định tại khoản 3 của điều luật).
- Phạm tội đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu hoặc người không có khả năng tự vệ: Đây là trường hợp phạm tội cướp tài sản mà nạn nhân bị tấn công là đối tượng đặc biệt và tính đặc biệt này làm tăng tính nguy hiểm của hành vi phạm tội. Ở đây, điều luật chỉ quy định rõ lỗi cố ý (“biết”) đối với đối tượng phụ nữ có thai.
- Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội: Đây là trường hợp phạm tội cướp tài sản đã góp phần gây ra tâm lý lo lắng trong dân cư về an ninh, trật tự, an toàn xã hội.
- Tái phạm nguy hiểm: Đây là trường hợp phạm tội cướp tài sản thoả mãn các điều kiện quy định tại khoản 2 Điều 53 Bộ luật hình sự.
Khoản 3 của điều luật quy định khung hình phạt tăng nặng thứ hai có mức phạt tù từ 12 năm đến 20 năm được áp dụng cho trường hợp phạm tội có một trong các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng sau:
- Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng: Đây là trường hợp phạm tội cướp tài sản mà tài sản chiếm đoạt trị giá từ 200 hiệu đồng trở lên nhưng phải dưới mức 500 triệu đồng (vì đến mức này sẽ thuộc khung hình phạt tăng nặng thứ ba được quy định tại khoản 4 của điều luật).
- Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%: Đây là trường hợp người phạm tội cướp tài sản đã cố ý hoặc vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ người bị tấn công với tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% trở lên nhưng phải dưới mức 61% (vì đến mức này sẽ thuộc khung hình phạt tăng nặng thứ ba được quy định tại khoản 4 của điều luật).
- Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh: Đây là trường hợp phạm tội cướp tài sản mà chủ thể đã lợi dụng tình trạng thiên tai hoặc tình trạng dịch bệnh khi thực hiện hành vi phạm tội. Trong đó, lợi dụng thiên tai là lợi dụng tình trạng có “... hiện tượng tự nhiên bất thường có thể gây thiệt hại về người, tài sản, môi trường, điều kiện sống và các hoạt động kinh tế - xã hội, bao gồm: bão, áp thấp nhiệt đới, lốc, sét, mưa lớn, lũ, lũ quét, ngập lụt, sạt lở đất do mưa lũ hoặc dòng chảy, sụt lún đất do mưa lũ hoặc dòng chảy, nước dâng, xâm nhập mặn, nắng nóng, hạn hán, rét hại, mưa đá, sương muối, động đất, sóng thần ...”; lợi dụng dịch bệnh là lợi dụng tình trạng có sự xuất hiện bệnh truyền nhiễm với số người mắc bệnh vượt quá số người mắc bệnh dự tính bình thường trong một khoảng thời gian xác định ở một khu vực nhất định”. Tình trạng này phải được cấp có thẩm quyền công bố (có thế là chủ tịch ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Bộ trưởng Bộ Y tế hoặc Thủ tướng Chính phủ).
Khoản 4 của điều luật quy định khung hình phạt tăng nặng thứ ba là phạt tù từ 18 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân được áp dụng cho trường hợp phạm tội có một trong các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng sau:
- Chiếm đoạt tài sản trị giá 500 triệu đồng trở lên: Đây là trường hợp phạm tội cướp tài sản mà tài sản chiếm đoạt trị giá từ 500 triệu đồng trở lên.
- Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của 01 người mà tỷ lệ tốn thương cơ thế 61% trở lên hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 37% trở lên: Đây là trường hợp người phạm tội cướp tài sản đã cố ý hoặc vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của 01 người bị tấn công với tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 61% trở lên hoặc của nhiều người với tỷ lệ tổn thương cơ thể mỗi người từ 31% trở lên.
- Làm chết người: Đây là trường hợp người phạm tội cướp tài sản đã gây hậu quả chết người và lỗi của họ đối với hậu quả này là lỗi vô ý. Nếu người phạm tội cố ý gây hậu quả chết người thì hành vi phạm tội không còn thuộc trường hợp này mà cấu thành hai tội (tội giết người và tội cướp tài sản).
- Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp: Đây là các trường hợp đã lợi dụng tình trạng rất đặc biệt của đất nước hoặc của địa phương để phạm tội. Đó là tình trạng chiến tranh của đất nước hoặc tình trạng khẩn cấp trong một phạm vi nhất định hay toàn quốc. Trong đó, tình trạng chiến tranh được hiểu là trạng thái xã hội đặc biệt của đất nước được tuyên bố trong thời gian từ khi nước nhà bị xâm lược cho tới khi hành động xâm lược đó được chấm dứt trên thực tế. Tình trạng này được công bố bởi Chủ tịch nước trên cơ sở Nghị quyết của Quốc hội hoặc ủy ban thường vụ Quốc hội. Tình trạng khẩn cấp có thể là tình trạng khẩn cấp về thảm họa lớn (trong đó có thiên tai), về dịch bệnh nguy hiểm hoặc về quốc phòng. Tình trạng này được cấp có thẩm quyền ban bố theo trình tự được pháp luật quy định.
Khoản 5 của điều luật quy định khung hình phạt áp dụng cho trường hợp chuẩn bị phạm tội cướp tài sản là phạt tù từ 01 năm đến 05 năm. Đây là trường hợp chủ thể chưa thực hiện hành vi dùng vũ lực, hành vi đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhưng đã có hành vi tạo điều kiện cho việc thực hiện hành vi này như chuẩn bị công cụ phạm tội, kế hoạch phạm tội hoặc đã có hành vi lập nhóm hay tham gia nhóm có kế hoạch cướp tài sản. Quy định này là điểm mới của Bộ luật hình sự năm 2015 so với Bộ luật hình sự năm 1999, thể hiện rõ đường lối xử lý có sự phân hóa trách nhiệm hình sự một cách rõ ràng giữa trường hợp chuẩn bị phạm tội và trường hợp tội phạm hoàn thành ở tội cướp tài sản. Theo Điều 14 Bộ luật hình sự, người từ đủ 14 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi chuẩn bị phạm tội cướp tài sản.
Khoản 6 của điều luật quy định khung hình phạt bổ sung (có thể được áp dụng) là: Phạt tiền từ 10 triệu đồng đến 100 triệu đồng, phạt quản chế, cấm cư trú từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.
Tham khảo một số bài viết pháp lý khác liên quan đến tội cướp tài sản:
Nếu còn bất cứ vướng mắc nào có thể liên hệ trực tiếp với
luật sư tư vấn pháp luật hình sự trực tuyến:
19006162. Trong trường hợp bạn cần thuê luật sư bào chữa tội cướp tài sản cho chính mình hoặc người thân có thể liên hệ trực tiếp với luật sư:
Tô Thị Phương Dung qua số:
0986386638 để được hướng dẫn chi tiết.