1. Khái niệm đặc xá

Đặc xá là một khái niệm pháp lý quan trọng trong hệ thống pháp luật của một quốc gia, đặc biệt trong lĩnh vực hình sự. Nó liên quan đến quyền hành của Chủ tịch nước hoặc các cơ quan có thẩm quyền khác để ban hành quyết định tha tội hoặc giảm nhẹ hình phạt đối với những người đang chấp hành án phạt tù.

Việc ban hành quyết định đặc xá cho phép Chủ tịch nước hoặc cơ quan có thẩm quyền khác xem xét lại tình huống và tính toán lại mức độ trách nhiệm pháp lý của người phạm tội. Điều này thường xảy ra trong những trường hợp đặc biệt, khi có những lợi ích xã hội hoặc nhân đạo cần được xem xét và cân nhắc.

Theo quy định, những đối tượng được áp dụng đặc xá bao gồm những người đang chấp hành án phạt tù, những người được tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù, những người được tạm ngoài vòng lao động để chữa bệnh, và những người được tạm ngoài vòng lao động để nuôi con nhỏ dưới 36 tháng tuổi.

Việc áp dụng đặc xá không chỉ đơn giản là một việc làm theo ý muốn của Chủ tịch nước, mà nó cần tuân thủ các quy định pháp luật và quy trình cụ thể. Thông thường, quyết định đặc xá được đưa ra sau khi đã xem xét kỹ lưỡng về mức độ phạm tội, hậu quả của hành vi, tình hình gia đình và những yếu tố khác có thể ảnh hưởng đến quyết định. Mục đích chính của đặc xá là tạo điều kiện để người phạm tội có cơ hội thực hiện việc cải tạo bản thân, sửa chữa hành vi và quay lại cuộc sống xã hội một cách có ích. Ngoài ra, việc áp dụng đặc xá cũng có thể giúp giảm bớt áp lực cho hệ thống tù tội, tạo điều kiện cho việc giảm tải quần chúng và tạo cơ hội cho những trường hợp đáng tha tội.

Tuy nhiên, việc quyết định áp dụng đặc xá cần được thực hiện cẩn thận và cân nhắc kỹ lưỡng, tránh việc lạm dụng quyền hạn và đảm bảo công bằng trong việc xử lý tội phạm. Quyết định đặc xá phải dựa trên cơ sở pháp lý rõ ràng và tuân thủ quy trình pháp luật đúng quy định.

 

2. Điều kiện chung để được hưởng đặc xá

Theo quy định tại Luật Đặc xá 2018, để được hưởng đặc xá, người bị kết án phải đáp ứng một số điều kiện chung như sau:

- Tiến bộ trong cải tạo: Người bị kết án cần có những tiến bộ đáng kể trong việc cải tạo bản thân, bày tỏ ý thức cải tạo tốt. Điều này có thể thể hiện qua sự tham gia tích cực vào các hoạt động giáo dục, đào tạo nghề, công việc làm thuê trong trại giam hoặc những nơi thực hiện án phạt tù. Đồng thời, họ cũng cần được xếp loại chấp hành án phạt tù ở mức khá hoặc tốt, tuân thủ nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật về thi hành án hình sự.

- Thực hiện nghĩa vụ bồi thường và nghĩa vụ dân sự: Người bị kết án đã phải thực hiện một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ bồi thường thiệt hại hoặc các nghĩa vụ dân sự khác theo bản án hoặc quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Điều này đảm bảo rằng họ đã đối mặt với hậu quả của hành vi phạm tội và có ý thức chịu trách nhiệm đối với hành động của mình.

- Không thuộc các trường hợp không được đề nghị đặc xá: Luật Đặc xá quy định một số trường hợp không được đề nghị đặc xá. Do đó, để được hưởng đặc xá, người bị kết án không được thuộc vào các trường hợp này. Các trường hợp này có thể bao gồm những tội phạm nghiêm trọng, tội phạm chống lại an ninh quốc gia, tội phạm ma túy, tội buôn lậu, tội phạm đối tượng, và một số trường hợp đặc biệt khác.

Tuy nhiên, việc xem xét và quyết định về việc hưởng đặc xá vẫn phụ thuộc vào quyền hạn và quyền định đoạt của Chủ tịch nước hoặc cơ quan có thẩm quyền khác. Các quy định chi tiết và quy trình cụ thể cũng được quy định trong Luật Đặc xá và các quy định pháp luật khác liên quan.

 

3. Điều kiện cụ thể đối với từng trường hợp

3.1 Điều kiện đối với người đang chấp hành án phạt tù có thời hạn, bị kết án phạt tù chung thân nhưng đã được giảm xuống tù có thời hạn

Theo khoản 1 Điều 11 Luật Đặc xá 2018, người đang chấp hành án phạt tù có thời hạn, người bị kết án phạt tù chung thân nhưng đã được giảm xuống tù có thời hạn được đề nghị đặc xá phải có đủ các điều kiện sau đây:

- Có nhiều tiến bộ, có ý thức cải tạo tốt và được xếp loại chấp hành án phạt tù khá hoặc tốt theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự;

- Đã chấp hành án phạt tù được một thời gian do Chủ tịch nước quyết định nhưng ít nhất là một phần ba thời gian đối với trường hợp bị phạt tù có thời hạn, nếu trước đó đã được giảm thời hạn chấp hành án phạt tù thì thời hạn được giảm không được tính vào thời gian đã chấp hành án phạt tù;

Đã chấp hành án phạt tù ít nhất là 14 năm đối với trường hợp bị phạt tù chung thân đã được giảm xuống tù có thời hạn, nếu sau khi đã được giảm xuống tù có thời hạn mà tiếp tục được giảm thời hạn chấp hành án phạt tù thì thời hạn được giảm sau đó không được tính vào thời gian đã chấp hành án phạt tù.

Người bị kết án về các tội sau:

+ Tội phá hoại việc thực hiện các chính sách kinh tế - xã hội;

+ Tội phá hoại chính sách đoàn kết; tội tổ chức, cưỡng ép, xúi giục người khác trốn đi nước ngoài hoặc trốn ở lại nước ngoài nhằm chống chính quyền nhân dân;

+ Tội trốn đi nước ngoài hoặc trốn ở lại nước ngoài nhằm chống chính quyền nhân dân;

Người bị kết án từ 10 năm tù trở lên về một trong các tội quy định tại Chương các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người của Bộ luật Hình sự do cố ý hoặc người bị kết án từ 07 năm tù trở lên về tội cướp tài sản;

+ Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản;

+ Tội sản xuất trái phép chất ma túy;

+ Tội mua bán trái phép chất ma túy; tội chiếm đoạt chất ma túy của Bộ luật Hình sự đã chấp hành án phạt tù được một thời gian do Chủ tịch nước quyết định nhưng ít nhất là một phần hai thời gian đối với trường hợp bị kết án phạt tù có thời hạn, nếu trước đó đã được giảm thời hạn chấp hành án phạt tù thì thời hạn được giảm không được tính vào thời gian đã chấp hành án phạt tù;

Đã chấp hành án phạt tù ít nhất là 17 năm đối với trường hợp bị phạt tù chung thân nhưng đã được giảm xuống tù có thời hạn, nếu sau khi đã được giảm xuống tù có thời hạn mà tiếp tục được giảm thời hạn chấp hành án phạt tù thì thời hạn được giảm sau đó không được tính vào thời gian đã chấp hành án phạt tù;

- Đã chấp hành xong hình phạt bổ sung là phạt tiền, đã nộp án phí;

- Đã thi hành xong nghĩa vụ trả lại tài sản, bồi thường thiệt hại, nghĩa vụ dân sự khác đối với người bị kết án phạt tù về các tội phạm tham nhũng hoặc tội phạm khác do Chủ tịch nước quyết định trong mỗi lần đặc xá;

- Đã thi hành xong hoặc thi hành được một phần nghĩa vụ trả lại tài sản, bồi thường thiệt hại, nghĩa vụ dân sự khác nhưng do lâm vào hoàn cảnh kinh tế đặc biệt khó khăn thuộc trường hợp chưa có điều kiện thi hành tiếp phần còn lại theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự đối với người bị kết án phạt tù không thuộc trường hợp quy định tại điểm d khoản 1 Điều 11 Luật Đặc xá 2018.

Trường hợp phải thi hành nghĩa vụ trả lại tài sản, bồi thường thiệt hại, nghĩa vụ dân sự khác đối với tài sản không thuộc sở hữu của Nhà nước thì phải được người được thi hành án đồng ý hoãn thi hành án hoặc không yêu cầu thi hành án đối với tài sản này;

- Khi được đặc xá không làm ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự;

- Không thuộc một trong các trường hợp quy định tại Điều 12 của Luật Đặc xá 2018.

3.2 Điều kiện đặc xá đối với người đang được tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù được đề nghị đặc xá

Người đang được tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù có thể được đề nghị đặc xá nếu đáp ứng đầy đủ các điều kiện sau đây:

- Tiến bộ và ý thức cải tạo: Người này cần có những tiến bộ đáng kể trong quá trình chấp hành án phạt tù và có ý thức cải tạo tốt. Đánh giá về việc chấp hành án phạt tù sẽ được xem xét và phải đạt mức khá hoặc tốt theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự trong thời gian chấp hành án phạt tù trước khi có quyết định tạm đình chỉ.

- Thời gian chấp hành án phạt tù: Người này cần đã chấp hành án phạt tù trong một khoảng thời gian cụ thể quy định tại điểm b, khoản 1 Điều 11 Luật Đặc xá 2018. Điều này đảm bảo rằng người bị kết án đã thực hiện một phần quan trọng của án phạt và đã có thời gian đủ để thể hiện sự cải tạo và thay đổi tích cực.

- Điều kiện khác: Người này cần đáp ứng các điều kiện quy định tại các điểm c, d, đ, e và g, khoản 1 Điều 11 Luật Đặc xá 2018. Các điều kiện này có thể liên quan đến việc không có tiền án, không vi phạm quy định về an ninh quốc gia, không có hành vi phạm tội trong thời gian tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù, và có thể bao gồm các yếu tố khác tùy thuộc vào tình huống cụ thể.

- Tuân thủ pháp luật: Trong thời gian được tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù, người này phải tuân thủ pháp luật một cách nghiêm chỉnh. Điều này đảm bảo rằng họ không vi phạm quy định pháp luật và thể hiện sự tôn trọng đối với hệ thống pháp luật.

Quá trình xem xét đặc xá là một quy trình phức tạp và được tiến hành bởi các cơ quan chức năng có thẩm quyền. Quyết định cuối cùng về việc đặc xá hay không đặc xá sẽ dựa trên các yếu tố và điều kiện cụ thể của từng trường hợp. Để biết thông tin chi tiết và chính xác hơn về quy định đặc xá và quá trình xem xét, đề nghị bạn tìm đến các nguồn thông tin chính thức hoặc tư vấn từ các chuyên gia pháp luật.

3.3  Điều kiện để người bị kết án được Chủ tịch nước quyết định thời gian đã chấp hành án phạt tù ngắn hơn so với thời gian quy định

Người bị kết án có thể được Chủ tịch nước quyết định giảm thời gian chấp hành án phạt tù so với quy định, nếu họ đáp ứng đủ các điều kiện quy định tại các điểm a, c, d, đ, e và g khoản 1, các điểm a, c và d khoản 2 Điều 11 Luật Đặc xá 2018. Dưới đây là các trường hợp mà người bị kết án có thể được giảm thời gian chấp hành án phạt tù:

- Lập công lớn: Người này đã có những đóng góp đáng kể trong quá trình chấp hành án phạt tù và được trại giam, trại tạm giam, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện hoặc cơ quan có thẩm quyền khác xác nhận.

- Có công với cách mạng: Người này được coi là có công với cách mạng theo quy định của pháp luật, hoặc đã được tặng danh hiệu Dũng sĩ trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, danh hiệu "Anh hùng Lao động", Huân chương Kháng chiến, hoặc là cha, mẹ, vợ, chồng, con của liệt sĩ và người có công nuôi dưỡng liệt sĩ khi còn nhỏ, con của Bà mẹ Việt Nam anh hùng, hoặc cha, mẹ, vợ, chồng, con của người có công giúp đỡ cách mạng được tặng Kỷ niệm chương "Tổ quốc ghi công" hoặc Bằng "Có công với nước".

- Bệnh hiểm nghèo và ốm đau: Người này đang mắc bệnh hiểm nghèo hoặc bị ốm đau thường xuyên mà không tự phục vụ bản thân.

- Dưới 18 tuổi: Trường hợp người phạm tội là dưới 18 tuổi, trừ những trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 11 Luật Đặc xá 2018.

- Trên 70 tuổi: Người này đã đủ 70 tuổi trở lên.

- Hoàn cảnh gia đình khó khăn: Người này có hoàn cảnh gia đình đặc biệt khó khăn và là người lao động duy nhất trong gia đình.

- Phụ nữ mang thai hoặc có con nhỏ: Phụ nữ này đang mang thai hoặc có con dưới 36 tháng tuổi và đang ở cùng mẹ trong trại giam, trại tạm giam, nhà tạm giữ.

- Người khuyết tật nặng: Người này có khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng theo quy định của pháp luật về người khuyết tật, hoặc gặp khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi theo quy định của pháp luật về dân sự.

- Trường hợp khác: Có các trường hợp khác mà Chủ tịch nước quyết định giảm thời gian chấp hành án phạt tù.

Bài viết liên quan: Có được giảm án phạt tù lần thứ hai không ? Điều kiện đặc xá vào ngày quốc khánh là gì ?

Trên đây là toàn bộ nội dung bài viết của Luật Minh Khuê về vấn đề: Điều kiện để người bị kết án được hưởng đặc xá theo quy định? Luật Minh Khuê xin tiếp nhận yêu cầu tư vấn của quý khách hàng qua số hotline: 1900.6162 hoặc email: lienhe@luatminhkhue.vn. Xin trân trọng cảm ơn và rất hân hạnh được đồng hành cùng quý khách!