Mục lục bài viết
- 1. Vướng mắc về đối tượng được cấp dưỡng
- 2. Vướng mắc về phương thức cấp dưỡng một lần
- 2.1 Căn cứ xác định khoản cấp dưỡng một lần
- 2.2 Việc quản lý khoản cấp dưỡng một lần
- 2.3 Không có quy định về yêu cầu cấp dưỡng bổ sung
- 2.4. Bất cập trong thực tiễn áp dụng:
- 3. Vướng mắc về thời điểm bắt đầu thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng
>> Luật sư tư vấn pháp luật Hôn nhân, gọi: 1900 6162
Luật sư tư vấn:
1. Vướng mắc về đối tượng được cấp dưỡng
Quy định của pháp luật hiện hành về đối tượng được cấp dưỡng khi cha mẹ ly hôn cơ bản đã hoàn chỉnh. Tuy nhiên trong quá trình nghiên cứu, tác giả nhận thấy còn một số vướng mắc như sau:
Một là, chưa quy định rõ điều kiện “không có khả năng lao động” của người được cấp dưỡng.
Hiện nay, chưa có văn bản pháp luật nào lý giải thế nào là “không có khả năng lao động”. Thực tế cho thấy cách hiểu của Tòa án khi áp dụng đã bỏ sót đối tượng con đã thành niên nhưng đang theo học tại các trường đại học, cao đẳng, trung cấp, học nghề….
Trên thực tế có rất nhiều trường hợp con đã đủ 18 tuổi nhưng lại đang theo học tại các trường đại học, cao đẳng đào tạo theo hệ tập trung, không có thời gian để tham gia lao động tạo ra thu nhập. Mà nếu có thời gian tham gia lao động, nhưng với quỹ thời gian ít ỏi thì thu nhập các con nhận được cũng sẽ không đủ để trang trải cho nhu cầu thiết yếu của bản thân, chưa kể đến điều đó có thể ảnh hưởng đến chất lượng học tập của các con. Vậy trong trường hợp này có được coi là không có khả năng lao động hay không?
Việc quy định quá chung chung như vậy lại không có văn bản hướng dẫn chi tiết đã dẫn đến cách hiểu không đúng và đã không giải quyết được những vấn đề phát sinh trong thực tiễn làm ảnh hưởng rất nhiều đến quyền lợi chính đáng của các con. Hơn nữa, khi con vào học chuyên nghiệp nhu cầu thiết yếu của các con có phần tăng cao nhưng lại không được cấp dưỡng nữa là một điều khó khăn cho cả con và người trực tiếp nuôi dưỡng.
Một ví dụ thực tế là trường hợp của chị Nguyễn Hiền Anh ở Nghĩa Tân, Cầu Giấy, Hà Nội sẽ cho ta thấy rõ bất cập của pháp luật hiện hành về đối tượng được cấp dưỡng khi cha mẹ ly hôn.
Thắc mắc của chị Hiền Anh: “Vợ chồng tôi ly hôn, có một con gái năm nay cháu 19 tuổi, đang theo học đại học. Do cháu vẫn còn đi học, mà việc học của cháu cần rất nhiều khoản chi tiêu, nên tôi có yêu cầu chồng cũ của tôi chu cấp tiền nuôi cháu đến khi cháu học xong ra trường, nhưng anh ta không chấp nhận, nói là đã nuôi con đến năm 18 tuổi theo quy định của pháp luật rồi, giờ anh ta không còn trách nhiệm nữa. Anh ta giờ đã có gia đình mới, cho nên khó mà bỏ tiền chu cấp cho con nữa. Tôi muốn hỏi, trường hợp như của tôi, pháp luật có quy định gì không về việc nuôi con đến khi học xong đại học”.
Mặt khác, liên quan đến vấn đề khả năng lao động, có thể thấy rằng tại các văn bản pháp luật về thuế cụ thể tại Điều 9 Thông tư 111/2013/TT-BTC có quy định cụ thể về đối tượng phụ thuộc của người nộp thuế bao gồm những đối tượng sau:
“1.2) Con từ 18 tuổi trở lên bị khuyết tật, không có khả năng lao động.
d.1.3) Con đang theo học tại Việt Nam hoặc nước ngoài tại bậc học đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, dạy nghề, kể cả con từ 18 tuổi trở lên đang học bậc học phổ thông (tính cả trong thời gian chờ kết quả thi đại học từ tháng 6 đến tháng 9 năm lớp 12) không có thu nhập hoặc có thu nhập bình quân tháng trong năm từ tất cả các nguồn thu nhập không vượt quá 1.000.000 đồng”
Theo đó, rõ ràng rằng pháp luật thuế ghi nhận con đang theo học tại bậc học đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, dạy nghề, kể cả con từ 18 tuổi trở lên đang học bậc học phổ thông không có thu nhập là người phụ thuộc đối với những người có trách nhiệm nuôi dưỡng, chăm sóc. Do đó, Luật HN&GĐ cần sửa đổi quy định về đối tượng được cấp dưỡng khi cha mẹ ly hôn để không chỉ phù hợp với quy định pháp luật liên quan mà quan trọng hơn là đảm bảo các con được hưởng trọn vẹn nhất quyền lợi chính đáng của mình.
Như vậy, có thể thấy rằng quy định về khả năng lao động trong quan hệ cấp dưỡng khi ly hôn cần được xem xét, bổ sung cho phù hợp hơn với điều kiện thực tế.
Thứ hai, chưa quy định rõ điều kiện “có tài sản để tự nuôi mình” của người được cấp dưỡng.
Theo quy định tại Điều 110 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 thì khi cha mẹ ly hôn, con đã thành niên không có khả năng lao động nhưng lại có tài sản để tự nuôi mình thì con cũng sẽ không được cấp dưỡng. Vậy, căn cứ nào để Tòa án có thể xác định người được cấp dưỡng có tài sản để tự nuôi được mình? Hiện nay vẫn chưa có hướng dẫn cụ thể nào. Đã có nhiều tác giả đưa ra quan điểm về việc làm rõ “có tài sản để tự nuôi mình” nhưng đó chỉ là những quan điểm khoa học của cá nhân không thể sử dụng làm căn cứ khi áp dụng pháp luật.
Do vậy, để đảm bảo quyền lợi và nghĩa vụ của các chủ thể, cần có quy định rõ về điều kiện “có tài sản để tự nuôi mình” của người được cấp dưỡng để đảm bảo áp dụng thống nhất trong thời gian tới.
2. Vướng mắc về phương thức cấp dưỡng một lần
Quy định pháp luật hiện hành về phương thức cấp dưỡng một lần vẫn còn những vướng mắc dẫn đến việc áp dụng trên thực tế chưa hoàn toàn phát huy được hết những ưu điểm của phương thức này, cụ thể:
2.1 Căn cứ xác định khoản cấp dưỡng một lần
Thông thường nghĩa vụ cấp dưỡng được thực hiện trong một khoảng thời gian khá dài, có những trường hợp không xác định được thời hạn (con thành niên mất hoàn toàn khả năng lao động và đương nhiên không có tài sản để tự nuôi mình) thì việc ấn định mức cấp dưỡng đủ cho cả thời hạn cấp dưỡng là điều cần thiết. Do nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng có thể những điều khách quan khác liệu rằng khoản cấp dưỡng một lần được xác định dựa trên nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng và khả năng của bên có nghĩa vụ cấp dưỡng được xác định tại thời điểm Tòa án giải quyết liệu rằng đã đủ chưa?
2.2 Việc quản lý khoản cấp dưỡng một lần
Giả sử trong trường hợp con được cấp dưỡng là người chưa thành niên nhưng người con đó đủ 16 tuổi và dưới 18 tuổi (theo khoản 4 Điều 21 BLDS năm 2015) thì số tiền cấp dưỡng là tài sản riêng của người con, do đó mà người con có quyền quản lý. Thực tế có rất nhiều trường hợp, cha mẹ ly hôn dẫn đến tâm lý tiêu cực ở những đứa con. Có những trường hợp bất mãn và trở nên sa đọa, hư hỏng, tự ý sử dụng số tiền cấp dưỡng này một cách không có kế hoạch mà ăn xài phung phí, trụy lạc vào những cuộc chơi trong thời gian ngắn. Hậu quả cuối cùng lại dồn lên vai người trực tiếp nuôi con.
Trước đây, tại khoản 3, khoản 4 Điều 18 Nghị định số 70/2001/NĐ-CP có quy định về việc quản lý khoản tiền cấp dưỡng một lần như sau: “Theo yêu cầu của người có nghĩa vụ cấp dưỡng, khoản cấp dưỡng một lần có thể được gửi tại ngân hàng hoặc được giao cho người được cấp dưỡng, người giám hộ của người được cấp dưỡng quản lý, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác. Người được giao quản lý khoản cấp dưỡng một lần có trách nhiệm bảo quản tài sản đó như đối với tài sản của chính mình và chỉ được trích ra để bảo đảm các nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng”. Tuy nhiên, hiện nay quy định trên đã hết hiệu lực và đến nay chưa có văn bản hướng dẫn thay thế, điều này có ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả áp dụng của phương thức cấp dưỡng một lần trên thực tế.
Việc quy định rõ ràng về vấn đề quản lý khoản cấp dưỡng một lần là rất cần thiết. Nó không chỉ làm tối ưu hóa hiệu quả của phương thức cấp dưỡng một lần mà còn đảm bảo nguồn chu cấp đều đặn hàng tháng cho người được cấp dưỡng mà không phải áp dụng những biện pháp tư pháp khác.
2.3 Không có quy định về yêu cầu cấp dưỡng bổ sung
Trong trường hợp người được cấp dưỡng lâm vào những tình cảnh như bệnh tật, tai nạn đột ngột mà khoản cấp dưỡng trước đó không đủ để trang trải cho nhu cầu thiết yếu nhất thì họ có quyền yêu cầu người đã thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng một lần trước đó cấp dưỡng bổ sung không? Đây cũng chính là một trong những thiếu sót mà quy định pháp luật hiện hành chưa giải quyết được khiến thực tiễn áp dụng còn nhiều lúng túng và máy móc. Về vướng mắc này, trước đây tại Điều 19 Nghị định số 70/2001/NĐ-CP có hướng dẫn chi tiết như sau: “Trong trường hợp người được cấp dưỡng một lần lâm vào tình trạng khó khăn trầm trọng do bị tai nạn hoặc mắc bệnh hiểm nghèo mà người đã thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng có khả năng thực tế để cấp dưỡng ở mức cao hơn, thì phải cấp dưỡng bổ sung theo yêu cầu của người được cấp dưỡng”. Tuy nhiên, hiện nay văn bản này đã hết hiệu lực và chưa có văn bản hướng dẫn thay thế do đó việc giải quyết những vướng mắc trên vẫn bỏ ngỏ.
Như vậy, để phương thức cấp dưỡng một lần phát huy đúng hiệu quả của nó cần giải quyết được hết các vướng mắc đã đặt ra trên đây.
2.4. Bất cập trong thực tiễn áp dụng:
Tòa án công nhận thỏa thuận của các bên về việc cấp dưỡng một lần với khoản cấp dưỡng rất lớn vượt quá khả năng của người có nghĩa vụ cấp dưỡng
Pháp luật ghi nhận để các bên thỏa thuận về mức cấp dưỡng, phương thức cấp dưỡng cho con với mục đích sẽ đưa ra được mực cấp dưỡng phù hợp và thuận tiện cho công tác thi hành án. Tuy nhiên, lợi dụng chính điều đó trên thực tế có rất nhiều vụ việc các bên vì mục đích trốn tránh thực hiện nghĩa vụ thi hành án khác đã ly hôn và tự nguyện thỏa thuận cấp dưỡng cho con với mức cấp dưỡng rất cao và thực hiện theo phương thức cấp dưỡng một lần. Tòa án đưa ra quyết định công nhận sự thỏa thuận này đã không xem xét lại khả năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng. Phải đến khi tiến hành thi hành án, sự bất thường này mới được cơ quan thi hành án phát hiện. Vụ việc cấp dưỡng nuôi con tiền tỷ theo phương thức cấp dưỡng một lần gây xôn xao dư luận trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh thời gian qua là một minh chứng cho bất cập này.
Ví dụ: Vụ án ly hôn giữa vợ chồng ông T vào tháng 3/2017 tại Tòa án nhân dân quận Tân Bình. Hai vợ chồng thỏa thuận giao hai con chung cho vợ trực tiếp nuôi dưỡng và ông T có nghĩa vụ cấp dưỡng cho hai con theo phương thức cấp dưỡng một lần với mức cấp dưỡng là 3 tỷ đồng .
Thực tế khi thi hành án cấp dưỡng này, cơ quan thi hành án đã phát hiện sự bất thường vì rõ ràng ông T (người phải thi hành án cấp dưỡng) đang không có khả năng để thi hành án trả nợ cho bà Y theo quyết định của TAND Thành phố HCM vào năm 2015.
Theo đó, khi mua nữ trang của bà Y, vợ chồng ông T đã nợ bà Y hơn 22.000 USD (tương đương hơn 460 triệu đồng). Bà Y khởi kiện, năm 2014 TAND quận 8 buộc ông T và vợ trả cho bà Y số tiền trên. Ông T kháng cáo, năm 2015 xử phúc thẩm, TAND thành phố HCM đã sửa bản án, tuyên chỉ buộc mình ông T phải trả tiền cho bà Y.
Do ông T có tài sản ở quận 5 nên Chi cục THADS quận 8 đã ủy thác về cho Chi cục THADS quận 5 thi hành. Đầu năm 2016, Chi cục THADS quận 5 kê biên một quầy sạp bán hàng của ông T. Ngay lập tức chị của ông T gửi đơn lên tòa tranh chấp quầy sạp nên phải tạm hoãn bán đấu giá để chờ phán quyết của tòa.
Cùng lúc đó, vợ ông T gửi đơn ly hôn ra TAND quận Tân Bình (thực tế hai người chưa từng đăng ký kết hôn). Tháng 3/2017, TAND quận Tân Bình đã chấp nhận đơn khởi kiện, không công nhận quan hệ vợ chồng. Tòa ghi nhận sự thỏa thuận giữa hai người để vợ ông nuôi hai con chung (14 tuổi và 9 tuổi), buộc ông T phải cấp dưỡng nuôi con một lần 3 tỷ đồng.
Khi bản án hôn nhân vừa có hiệu lực thì cũng là lúc chị ông T rút đơn khởi kiện không tranh chấp quầy sạp nữa nên TAND quận 5 đã đình chỉ vụ án dân sự này. Do các bên không còn tranh chấp nên Chi cục THADS quận 5 đã bán đấu giá quầy sạp này được gần 600 triệu đồng. Thực tế số tiền này đủ để trả cho người được thi hành án là bà Y. Tuy nhiên, theo khoản 1 Điều 47 Luật THADS thì số tiền trên phải ưu tiên thanh toán cho bản án cấp dưỡng nuôi con 3 tỉ đồng trước.
Vì thế trước tình huống trên Chi cục THADS quận 5 đã hai lần có công văn đề nghị TAND Cấp cao và VKSND Cấp cao tại TP.HCM kháng nghị giám đốc thẩm theo hướng hủy bản án hôn nhân nói trên để tránh hậu quả pháp lý xảy ra. Theo cơ quan này, bản án hôn nhân ảnh hưởng nghiêm trọng tới quyền lợi của bà Y. Bởi việc thỏa thuận ông T tự nguyện cấp dưỡng nuôi con 3 tỉ đồng là số tiền rất lớn không phù hợp với khả năng thực tế của ông T cũng như như cầu thiết yếu của hai con chung.
Ví dụ: Ông Quách Việt Long khởi kiện yêu cầu TAND quận 2 không công nhận quan hệ vợ chồng. Tháng 6/2016 TAND quận 2 xét xử và tuyên không công nhân quan hệ vợ chồng giữa ông Long và bà Tuyền, công nhận sự thỏa thuận giao con chung là một cháu trai 12 tuổi cho ông Long nuôi và bà Tuyền có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con một lần là 10 tỷ đồng.
Trước đó, năm 2012 bà Tuyền có bán nhà cho ông Toàn, đã nhận tiền cọc nhưng bà Tuyền lại không chịu ra phòng công chứng để làm thủ tục sang tên nên ông Toàn khởi kiện. Tháng 7/2013 TAND quận 2 đã ra quyết định công nhận sự thỏa thuận thành giữa bà Tuyền và ông Toàn về việc bà Tuyền phải trả cho ông Toàn 7,6 tỷ đồng. Theo đó, bà Tuyền có nghĩa vụ phải thi hành án trả ông Toàn 7,6 tỷ đồng. Tháng 10/2013, Chi cục THADS quận 2 đã ra quyết định thi hành án theo yêu cầu của ông Toàn. Chi cục THADS quận 2 đã kê biên, bán đấu giá căn nhà trên của bà Tuyền để thi hành án nhưng chưa thành thì tháng 1/2016, bà Tuyền bị ông Quách Việt Long khởi kiện yêu cầu TAND quận 2 không công nhận quan hệ vợ chồng. Tháng 6, TAND quận 2 đưa vụ kiện này ra xử. Bà Tuyền đồng ý giao con chung của hai người là một cháu trai 12 tuổi cho ông Long nuôi và tự nguyện cấp dưỡng nuôi con một lần là 10 tỷ đồng. Tháng 9-2016, Chi cục THADS quận 2 đã ra quyết định thi hành án theo yêu cầu của ông Long.
Ngoài nghĩa vụ thi hành án cho ông Toàn, bà Tuyền còn phải thi hành án trả nợ cho ông Dũng hơn 1,2 tỷ đồng theo bản án của TAND quận 2 vào tháng 6/2016. Trước đó, năm 2012, ông Dũng mua một căn nhà của bà Tuyền ở khu phố 2 (phường Cát Lái, quận 2), đã đưa tiền cọc nhưng bà cũng Tuyền không chịu giao nhà nên ông khởi kiện bà Tuyền. Tháng 10/2016, Chi cục THADS quận 2 đã ra quyết định thi hành án theo yêu cầu của ông Dũng.
Tính cả ba vụ việc trên thì bà Tuyền có nghĩa vụ phải thi hành án gần 19 tỷ đồng. Trong khi đó, bà Tuyền chỉ có tài sản là hai căn nhà ở quận 2, tổng trị giá theo kết quả định giá là khoảng 8,8 tỷ đồng, không đủ để THA cho cả ba vụ việc. Mặt khác, tiền cấp dưỡng nuôi con được ưu tiên thanh toán trước theo quy định tại Điều 47 Luật THADS. Như vậy, nếu bán đấu giá thành công hai căn nhà của bà Tuyền thì phải ưu tiên thi hành án trước cho nghĩa vụ cấp dưỡng, tức ông Toàn và ông Dũng có khả năng sẽ không được thi hành án.
Như vậy, rõ ràng trong trường hợp này bà Tuyền có điều kiện thi hành án nhưng không tự nguyện thi hành, cố tình kéo dài thời gian, tìm cách trốn tránh nghĩa vụ. Bà Tuyền biết rõ mình đang phải thi hành nghĩa vụ trả nợ cho ông Toàn và tài sản bán đấu giá cũng không đủ để thi hành nghĩa vụ nhưng lại cố tình thỏa thuận tự nguyện cấp dưỡng cho con 12 tuổi với số tiền 10 tỷ đồng, thi hành ngay một lần ngay khi bản án có hiệu lực là không hợp lý, ảnh hưởng đến quyền lợi chính đáng của ông Toàn và ông Long.
Trước tình hình đó, Chi cục THADS quận 2 đã gửi văn bản kiến nghị đến VKSND Cấp cao và TAND Cấp cao tại TP.HCM yêu cầu xem xét lại bản án hôn nhân của bà Tuyền về phần cấp dưỡng.
Nhận thấy trong vụ việc này khi đưa ra quyết định công nhận thỏa thuận của các bên về mức cấp dưỡng TAND quận 2 đã chưa xác minh, xem xét, tìm hiểu kỹ các bản án mà bà Tuyền đang phải thi hành cũng như mức thu nhập thực tế của bà Tuyền mà lại chấp nhận thỏa thuận để cho bà Tuyền cấp dưỡng nuôi con 10 tỷ đồng. Bản án của tòa về phần cấp dưỡng nuôi con không phù hợp với khả năng thực tế của bà Tuyền, ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của ông Toàn và ông Dũng. Hơn nữa, theo quy định của HN&GĐ năm 2014, cha mẹ có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con đến khi con đủ 18 tuổi và có khả năng lao động. Nay con trai của bà Tuyền đã hơn 12 tuổi, nếu làm phép tính chia số tiền 10 tỷ đồng mà cháu được cấp dưỡng một lần thì tương đương mỗi tháng cháu được hưởng khoảng 140 triệu đồng là bất hợp lý. Do đó, TAND quận 2 quyết định bà Tuyền phải cấp dưỡng 10 tỷ đồng nuôi con là không phù hợp với các tình tiết khách quan của vụ án.
Chấp nhận kháng nghị của VKSND Cấp cao tại TP Hồ Chí Minh, Ủy ban thẩm phán TAND Cấp cao tại TP Hồ Chí Minh xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm, tuyên hủy toàn bộ bản án sơ thẩm của TAND quận 2, giao hồ sơ cho cơ quan này xét xử lại từ đầu.
Qua vụ việc trên thấy được rằng, tại một số Tòa án sơ thẩm khi giải quyết vấn đề cấp dưỡng cho con vẫn còn tình trạng sơ xuất, không điều tra đầy đủ, chủ quan trong đánh giá, xem xét các tình tiết vụ án, quyết định việc cấp dưỡng không có căn cứ gây khó khăn cho việc thi hành án và tạo điều kiện cho đương sự trốn tránh nghĩa vụ thanh toán, gây thiệt hại cho các đương sự cũng như khoản thu nộp Ngân sách nhà nước.
3. Vướng mắc về thời điểm bắt đầu thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng
Luật HN&GĐ năm 2014 quy định chưa cụ thể về thời điểm bắt đầu thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng cho con khi ly hôn. Bởi lẽ đó, việc quyết định thời điểm cấp dưỡng này xuất phát từ ý chí chủ quan của các tòa án, gây ra tình trạng không thống nhất trong việc áp dụng pháp luật ở các địa phương. Có tòa cho rằng nghĩa vụ cấp dưỡng phát sinh từ khi bản án có hiệu lực, có tòa lại cho rằng nghĩa vụ đó phát sinh từ khi người không trực tiếp nuôi con không thực hiện việc đóng góp nuôi con khi hôn nhân còn tồn tại. Vì vậy, quyền lợi của trẻ nhiều khi cũng không được đảm bảo một cách đầy đủ, chính xác.
Chẳng hạn như khi giải quyết vụ án ly hôn mà vợ chồng bị tòa án tuyên bố mất tích, sau một thời gian bản án có hiệu lực pháp luật, người mất tích lại trở về. Trong trường hợp này, việc xác định người đó phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng kể từ thời điểm người đó mất tích hay thời điểm có hiệu lực của bản án ly hôn vẫn còn là vấn đề tranh cãi. Trong thực tiễn xét xử có nơi tòa án chấp nhận yêu cầu cấp dưỡng từ khi người bỏ đi biệt tích không thực hiện việc nuôi dưỡng nhưng cũng có nơi chỉ chấp nhận buộc bên không trực tiếp nuôi con thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng từ khi bản án ly hôn có hiệu lực pháp luật. Như vậy, đã xảy ra tình trạng hổng luật, thiếu các quy định pháp luật để giải quyết một cách thống nhất giữa các Tòa án với nhau trong những vụ việc giống nhau liên quan đến vấn đề này.
Bên cạnh đó, còn tồn tại nhiều trường hợp vợ chồng ly thân trước khi đi đến quyết định ly hôn và từ thời điểm ly thân đó con đã được trực tiếp nuôi dưỡng chăm sóc bở cha hoặc mẹ. Tuy nhiên, khi giải quyết ly hôn, bên trực tiếp nuôi dưỡng con yêu cầu người còn lại cấp dưỡng cho con kể từ thời điểm không sống chung với con thì có Tòa chấp thuận có Tòa thì không. Sự không thống nhất trong áp dụng pháp luật này chính bởi sự quy định thiếu chặt chẽ trong việc xây dựng quy định pháp luật. Theo đó, Tòa án chấp thuận và buộc người không trực tiếp nuôi con phải cấp dưỡng cho con kể từ khi ly thân (không sống chung với con) là căn cứ quy định tại Điều 110 Luật HN&GĐ năm 2014. Còn Tòa án không chấp thuận và chỉ tuyên người không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con kể từ khi ly hôn là căn cứ quy định tại Điều 82 Luật HN&GĐ. Như vậy, rõ ràng cùng quy định về thời điểm cấp dưỡng nhưng một quy định nằm trong chế định ly hôn và một quy định nằm trong chế định cấp dưỡng đã khiến việc áp dụng trở nên không thống nhất.
Lưu ý: Cha, mẹ đã bị Tòa án tuyên bố hạn chế quyền đối với con thì có phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng cho con không?
>> Tòa án chỉ hạn chế quyền đối với con, cấp dưỡng cho con là nghĩa vụ vì vậy người cha/mẹ bị hạn chế quyền vẫn phải thực hiện nghãi vụ cấp dưỡng cho con. Điều này được quy định cụ thể tại khoản 3 Điều 87 Luật Hôn nhân & gia đình năm 2014: "Cha, mẹ đã bị Tòa án hạn chế quyền đối với con chưa thành niên vẫn phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng cho con."
Trên đây là tư vấn của chúng tôi. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ bộ phận Tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài điện thoại gọi ngay số: 1900.6162 để được giải đáp. Rất mong nhận được sự hợp tác! Trân trọng./.