1. Hệ thống pháp luật VIệt Nam từng bước được hoàn thiện
Sau hơn 70 năm hình thành và phát triển, hệ thống pháp luật Việt Nam đã từng bước được hoàn thiện. Pháp luật trở thành công cụ chủ yếu để quản lý nhà nước, quản lý xã hội. Đặc biệt sau gần 30 năm tiến hành sự nghiệp đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước ta đã từng bước xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, góp phần quan trọng vào việc hình thành và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, từng bước hoàn thiện hệ thống chính trị, tạo môi trường pháp lý cho việc hội nhập quốc tế. Hệ thống pháp luật nước ta ngày càng phát triển cân đối hơn trên phương diện cấu trúc và phương diện nguồn của pháp luật.
2. Hoàn thiện ở phương diện cấu trúc
Ở phương diện cấu trúc, các ngành luật được hình thành và phát triển ngày càng đồng đều, toàn diện hơn. Các chế định pháp luật ngày càng được phân hóa và cụ thể hơn. Các nguyên tắc pháp luật từng bước được xác định và thể hiện đầy đủ, rõ ràng hơn. Toàn bộ hệ thống pháp luật được phát triển theo những định hướng phục vụ cho sự phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội -chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo vệ quyền con-người, quyền công dân.
3. Hoàn thiện ở phương diện nguồn của pháp luật
Ở phương diện nguồn của pháp luật, các văn bản quy phạm pháp luật được xây dựng, ban hành, cụ thể hóa theo hướng cân đối hơn. Cụ thể như sau:
Trong lĩnh vực tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, nhiều văn bản pháp luật được xây dựng và ban hành với những đổi mới tích cực theo hướng đáp ứng yêu cầu của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Điều đó thể hiện ở việc chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan nhà nước, nhiệm vụ, quyền hạn của công chức, nội dung và trách nhiệm công vụ được phân định rành mạch, rõ ràng hơn; thủ tục hành chính bước đầu được cải cách theo hướng đơn giản, công khai, minh bạch, dễ tiếp cận, dễ kiểm tra, giám sát; các dịch vụ cống dần dần được xác lập, từng bước đáp ứng nhu cầu của Nhân dân và yêu cầu cải cách hành chính; pháp luật về giám sát, thanh tra, kiểm tra được coi trọng; hoạt động của các cơ quan nhà nước đổi mới theo hướng dân chủ hơn; phương châm "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra" đã được luật hóa.
Trong lĩnh vực kinh tế, nhiều đạo luật quan trọng tạo môi trường pháp lý phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã được ban hành; chế độ sở hữu, các hình thức sở hữu, địa vị pháp lý của doanh nghiệp, thương gia, quyền tự do kinh doanh, các cơ chế khuyến khích và bảo đảm đầu tư, khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực xã hội từng bước được xác lập; các quy định mang tính hành chính, mệnh lệnh điều chỉnh các quan hệ dân sự, kinh tế, thương mại từng bước được thay thế bằng các quy định bình đẳng, ngang quyền phù hợp với luật dân sự và tập quán pháp lý, góp phần giảm thiểu sự can thiệp bằng biện pháp hành chính của các cơ quan nhà nước vào các quan hệ dân sự, kinh tế, thương mại và hoạt động của các doanh nghiệp, giảm cơ chế xin - cho; chế độ Nhà nước độc quyền về ngoại thương đã được xóa bỏ; nguyên tắc công dân được làm tất cả những gì mà pháp luật không earn trong hoạt động kinh doanh đã được xác lập.
Trong lĩnh vực xã hội, pháp luật về lao động, xóa đói giảm nghèo, bảo hiểm xã hội, ưu đãi xã hội, dân số và kế hoạch hóa gia đình, chăm sóc, bảo vệ sức khỏe nhân dân, bảo vệ môi trường và các lĩnh vực xã hội khác đã được quan tâm xây dựng, góp phần hạn chế những tiêu cực của kinh tế thị trường. Đặc biệt, pháp luật về bảo vệ môi trường có bước phát triển vượt bậc theo quan điểm phát triển bền vững với sự kết hợp hài hòa giữa phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ môi trường.
Trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ, văn hóa, pháp luật đã phát triển theo hướng xã hội hóa một phần hoạt động giáo dục và đào tạo; đa dạng hóa các hình thức giáo dục và đào tạo; gắn kết khoa học - công nghệ với thực tiễn; tăng cường bảo hộ sở hữu trí tuệ; giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.
Trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội, pháp luật được hình thành, phát triển vững chắc và ngày càng được tăng cường, góp phần giữ vững ổn định chính trị, phòng chống tội phạm và vi phạm pháp luật khác. Hoạt động trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh từng bước được thể chế hóa; pháp luật trong lĩnh vực tư pháp hình sự ngày càng được hoàn thiện đáp ứng yêu cầu bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ công lý, đầu tranh phòng, chống tội phạm; pháp luật về vi phạm hành chính từng bước được cụ thể hóa theo các lĩnh vực khác nhau của quản lý nhà nước.
Trong lĩnh vực đối ngoại và hợp tác quốc tế, pháp luật ngày càng được quan tâm xây dựng và hoàn thiện. Nhà nước ta đã ký kết hoặc gia nhập nhiều điều ước quốc tế phục vụ cho chủ trương mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động hội nhập quốc tế. Vai trò, vị trí của điều ước quốc tế trong điều chỉnh các quan hệ xã hội được nâng cao. Việc ký kết và thực hiện điều ước quốc tế đi vào trật tự do pháp luật quy định; điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc gia nhập dần trở thành một bộ phận không thể tách rời của hệ thống pháp luật.
4. Hệ thống pháp luật nước ta đang tồn tại những nhược điểm
Có thể nói, qua hơn 70 năm hình thành và phát triển, hệ thống pháp luật nước ta đã có số lượng văn bản quy phạm pháp luật rất lớn. Chỉ tính từ ngày 01-01-1987 đến 30-11-2008, riêng các cơ quan trung ương, đã ban hành 19.126 văn bản, trong đó có 208 luật, bộ luật, 192 pháp lệnh, 2.097 nghị định, 267 nghị quyết và 36 thông tư, 1.213 thông tư liên tịch.... Số lượng văn bản này, một mặt thể hiện yêu cầu hoàn thiện khung pháp luật của nước ta đang dần được thực hiện, nhưng mặt khác, lại làm phát sinh rất nhiều hệ lụy liên quan đến những nhược điểm, tồn tại của hệ thống pháp luật.
5. Các nhược điểm của hệ thống pháp luật nước ta
- Tính thống nhất của hệ thống pháp luật không cao: Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật đa dạng về hình thức, đồ sộ về số lượng, không được thường xuyên rà soát, hệ thống hoá khiến người dân rất khó tiếp cận, tìm hiểu và tuân thủ đúng yêu cầu của pháp luật. Do có quá nhiều loại văn bản, được nhiều cấp ban hành nên mâu thuẫn và chổng chéo là khó tránh khỏi. Sự cồng kềnh, bất cập và mâu thuẫn làm giảm tính thống nhất, minh bạch của pháp luật, làm cho pháp luật trở nên phức tạp, khó hiểu, khó áp dụng và vì thể kém hiệu lực. Với hệ thống pháp luật như vậy, nên việc hiểu để áp dụng và thực hiện pháp luật là chuyện khó khăn không chỉ đối với người dân, doanh nghiệp mà còn đối với cả các chuyên gia pháp lý.
- Tính toàn diện, đồng bộ, cân đối của hệ thống pháp luật tuy có cải thiện nhưng vẫn còn sự chênh lệch lớn về số lượng văn bản và mức độ hoàn thiện của pháp luật trong các lĩnh vực khác nhau. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu quản lý đất nước bằng pháp luật, còn một số lĩnh vực của đời sống xã hội vẫn chưa có luật điều chỉnh. Số lượng văn bản trong lĩnh vực tổ chức bộ máy nhà nước, đặc biệt là pháp luật về quyền con người, quyền tự do dân chủ của công dân còn chưa được hoàn thiện (chỉ có 10 luật, pháp lệnh, chiếm 8,6%), pháp luật về đối ngoại (04 luật, pháp lệnh, chiếm 0,4%). Nhiều dự án luật trong các lĩnh vực này như Luật về hội, Luật tiếp cận thông tin... mặc dù đã đưa vào chương trình và được soạn thảo nhiều năm nhưng vẫn chưa được ban hành. Văn bản quy phạm pháp luật về tố tụng thường được sửa đổi chậm hơn so với các văn bản quy phạm pháp luật về nội dung. Trong một số lĩnh vực, các văn bản quy phạm pháp luật đã được ban hành thiếu ổn định, thường xuyên phải sửa đổi. Nhiều nội dung trong các nghị quyết của Đảng về đổi mới kinh tế - xã hội, văn hóa, khoa học, giáo dục, an ninh, quốc phòng... chậm được thể chế hóa.
- Tính ổn định của hệ thống pháp luật thấp-. Nhiều văn bản pháp luật, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế tài chính, ngân hàng... thường xuyên thay đổi. Nguyên nhân khách quan của tình trạng này là sự chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, sự phát triển năng động và phức tạp của các quan hệ kinh tế- xã hội, những biến động do khủng hoảng kinh tế toàn cầu và khu vực. Nguyên nhân chủ quan là do khả năng dự báo, điều tiết các quan hệ kinh tê' thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hoạch định chính sách... thiếu tầm nhìn chiến lược. Chính vì vậy, nhiều văn bản pháp luật "tuổi thọ" ngắn, thậm chí, vừa ban hành đã phải đình chỉ thi hành hoặc sửa đổi, bổ sung. Pháp luật thường xuyên thay đổi, gây khó khăn cho người thực hiện và tác động xấu đến sự ổn định của các quan hệ kinh tế- xã hội.
- Tính công khai, minh bạch của hệ thống pháp luật còn bất cập: Những sai phạm về hình thức văn bản vẫn xảy ra. Một số văn bản hành chính lưu hành trong nội bộ các cơ quan nhà nước nhưng lại chứa quy phạm pháp luật có hiệu lực thi hành chung với nhiều đối tượng khác nhau trong xã hội, làm giảm tính minh bạch, công khai của hệ thống pháp luật. Chưa có sự phân định rõ phạm vi, ranh giới giữa việc giải thích luật, pháp lệnh thuộc thẩm quyền của ủy ban thường vụ Quốc hội, việc ban hành văn bản hướng dẫn của Chính phủ và các cơ quan có. thẩm quyền khác với việc Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật trong hoạt động xét xử. Trong nhiều trường hợp, pháp luật được hiểu, được áp dụng chưa thống nhất, trong khi ủy ban thường vụ Quốc hội hầu như không thực hiện việc giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh. Việc nghiên cứu và tổ chức thực hiện các điều ước quốc tế mà nước ta đã ký kết hoặc gia nhập chưa được coi trọng đúng mức; công tác nội luật hóa điều ước quốc tế chậm được tiến hành...