Mục lục bài viết
- 1. Quy định luật hình sự trước đây về tội cản trở hôn nhân
- 2. Tội cưỡng ép kết hôn hoặc cản trở hôn nhân hiện nay.
- 3. Phân tích cấu thành tội cưỡng ép kết hôn hoặc cản trở hôn nhân
- 4. Tội vi phạm chế độ hôn nhân một vợ, một chồng.
- 5. Tội tổ chức tảo hôn.
- 6. Đánh vợ có bị truy cứu trách nhiệm hình sự không?
Tội cưỡng ép kết hôn hoặc cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ là tội phạm mà người phạm tội có hành vi cưỡng ép người khác kết hôn trái với sự tự nguyện của họ, cản trở người khác kết hôn hoặc duy trì quan hệ hôn nhân tự nguyện bằng cách hành hạ, ngược đãi, uy hiếp tinh thần, yêu sách của cải hoặc bằng thủ đoạn khác đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm.
>> Luật sư tư vấn pháp luật hình sự trực tuyến qua điện thoại gọi: 1900.6162
1. Quy định luật hình sự trước đây về tội cản trở hôn nhân
Điều 146 Bộ luật Hình sự năm 1999 (Bộ luật hình sự sửa đổi bổ sung năm 2009) quy định về tội cưỡng ép kết hôn hoặc cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ như sau:
Người nào cưỡng ép người khác kết hôn trái với sự tự nguyện của họ, cản trở người khác kết hôn hoặc duy trì quan hệ hôn nhân tự nguyện, tiến bộ bằng cách hành hạ, ngược đãi, uy hiếp tinh thần, yêu sách của cải hoặc bằng thủ đoạn khác đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm.
2. Tội cưỡng ép kết hôn hoặc cản trở hôn nhân hiện nay.
Tội cưỡng ép kết hôn, ly hôn hoặc cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, cản trở ly hôn tự nguyện được quy định tại điều 181 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017:
Điều 181 Bộ luật hình sự quy định:
“Người nào cưỡng ép người khác kết hôn trái với sự tự nguyện của họ, cản trở người khác kết hôn hoặc duy trì quan hệ hôn nhân tự nguyện, tiến bộ hoặc cưỡng ép hoặc cản trở người khác ly hôn bằng cách hành hạ, ngược đãi, uy hiếp tinh thần, yêu sách cùa cải hoặc bằng thủ đoạn khác, đã bị xử phạt hành chỉnh về hành vi này mà còn vi phạm... ”.
+ Hành vi cản trở người khác ly hôn tự nguyện.
Cưỡng ép người khác kết hôn trái với sự tự nguyện của họ (còn có thể được gọi là cưỡng ép kết hôn) là buộc người khác phải lấy người nào đó làm chồng hoặc làm vợ trái với sự tự nguyện của họ.
Cản trở người khác kết hôn họp pháp (còn có thể được gọi là cản trở kết hôn) là ngăn cản người khác không được kết hôn theo ý muốn của họ, trong khi cuộc hôn nhân đó là hoàn toàn hợp pháp. Như vậy, hành vi cản trở hôn nhân sai trái (vi phạm các điều kiện kết hôn do luật định) không phải là hành vi khách quan cửa tội phạm này.
+ Hành vi cản trở người khác duy tri quan hệ hôn nhân tự nguyện, tiến bộ là ngăn cản, gây khó khăn cho người khác trong việc họ tiếp tục có quan hệ hôn nhân đúng pháp luật với người khác.
+ Cưỡng ép người khác ly hôn (còn có thể được gọi là cưỡng ép li hôn) là buộc người khác (một bên hoặc cả hai bên) phải thực hiện việc ly hôn trái ý muốn của họ.
+ Cản trở người khác ly hôn (còn có thể được gọi là cản trở li hôn) là ngăn cản người khác (một bên hoặc cả hai bên) không được thực hiện việc ly hôn mà họ muốn.
- Thủ đoạn phạm tội (thủ đoạn thực hiện hành vi khách quan nêu trên) được quy định phải là một trong các thủ đoạn sau:
+ Hành hạ: Là hành vi đối xử tàn ác như đánh đập, gây cho họ sự đau đớn, khổ sở về thể chất, tuy chưa đến mức gây thương tích hoặc tổn hại đáng kể đến sức khoẻ của nạn nhân nhưng lại diễn ra có tính hệ thống.
Hình phạt tội cưỡng ép kết hôn hoặc cản trở hôn nhân:
Điều luật quy định 01 khung hình phạt là cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc bị phạt tù từ 03 tháng đến 03 năm.
3. Phân tích cấu thành tội cưỡng ép kết hôn hoặc cản trở hôn nhân
+ Khách thể của tội phạm: Hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, hôn nhân giữa công dân Việt Nam thuộc các dân tộc, các tôn giáo, giữa người theo tôn giáo và người không theo tôn giáo, giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ, đây cũng là nội dung những nguyên tắc cơ bản của Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam. Chính vì thế, hành vi cưỡng ép kết hôn hoặc cản trở hôn nhân xâm phạm chế độ hôn nhân tự nguyện, tiến bộ được pháp luật bảo vệ.
+ Mặt khách quan của tội phạm:
Hành vi nguy hiểm cho xã hội của loại tội phạm này là hành vi cưỡng ép người khác kết hôn trái với sự tự nguyện của họ, cản trở người khác kết hôn hoặc duy trì quan hệ hôn nhân tự nguyện, tiến bộ.
Hành vi cưỡng ép người khác kết hôn trái với sự tự nguyện của họ là hành vi dùng các thủ đoạn khác nhau buộc người khác phải lực chọn việc lấy vợ, lấy chồng dù họ không muốn. Hành vi cản trở người khác kết hôn là hành vi ngăn cản việc kết hôn của một người trái ý muốn của họ dù quan hệ tiến tới hôn nhân trong trường hợp này không thuộc các điều kện cấm kết hôn quy định trong Luật hôn nhân và gia đình. Hai loại hành vi này được thực hiện khi những người khác chưa thiết lập quan hệ hôn nhân.
Hành vi cản trở người khác duy trì quan hệ hôn nhân tự nguyện, tiến bộ là hành vi ngăn cản việc tiếp tục mối quan hệ vợ chồng được thiết lập sau khi kết hôn một cách hợp pháp buộc người khác phải ly hôn trái với nguyện vọng của họ. Loại hành vi trên được thực hiện khi những người khác đã tồn tại quan hệ hôn nhân.
Các thủ đoạn hành hạ, ngược đãi, uy hiếp tinh thần,…mà điều 146 Bộ luật hình sự liệt kê có thể giải thích như sau:
Hành hạ: là hành vi đối xử với người lệ thuộc mình dẫn tới những đau đớn về mặt thể chất như đánh đập, bỏ đói, bắt giữ, nhốt trói,…
Ngược đãi: là hành vi đối xử với người lệ thuộc mình dẫn tới những đau đớn về mặt tinh thần như mắng chửi, sỉ nhục hoặc hành vi khác làm người bị lệ thuộc cảm thấy nhục nhã, tủi hổ,…
Uy hiếp tinh thần: là hành vi đe dọa sẽ dùng vũ lực gây thiệt hại đến các quyền và lợi ích cơ bản của người như dọa gây thương tích, gây thiệt hại về tài sản hoặc đe dọa gây thiệt hại cho người định lấy làm vợ, làm chồng,…
Thực tế cho thấy để cưỡng ép hoặc cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ người phạm tội có thể sử dụng một trong các thủ đoạn trên hoặc không từ bất kỳ thủ đoạn nào để đạt được mục đích phạm tội. Việc phân định người phạm tội sử dụng thủ đoạn nào trong nhiều trường hợp cũng chỉ mang tình chất tương đối do người phạm tội thường gây ra cả những đau đơn về mặt thể chất và tinh thần cho người bị cản trở, cưỡng ép.
Yêu sách về của cải là hành vi đòi hỏi việc kết hôn phải thỏa mãn những điều kiện về kinh tế một cách phi lý rõ ràng vượt quá khả năng kinh tế của một bên để cho phép kết hôn hoặc thực hiện nghi lễ kết hôn hoặc để đảm bảo cho đời sống hôn nhân sau này như thách cưới, đòi của hồi môn với giá trị rất lớn nhằm ngăn cản, chia rẽ hai bên không thể vượt qua rào cản về kinh tế để tiến tới hôn nhân.
Thủ đoạn khác là những hành vi khác trái pháp luật nhằm mục đích cưỡng ép hoặc cản trở hôn nhân tự nguyện, tiế bộ.
Những hành vi nếu trên sẽ chỉ bị xử lý hình sự nếu trước đó đã từng bị xử phạt hành chính về tội này. Mặt khác, một điều cần lưu ý là những hành vi này nếu đã đủ yếu tố cấu thành các tội hành hạ người khác hoặc tội bức tử thì sẽ bị xử lý về các tội này.
Những tường hợp sự tự nguyện trong việc đi tới hôn nhân dựa trên những thủ đoạn lừa dối để lấy người có tài sản, có điều kiện về kinh tế, để lấy người khỏe mạnh không bị coi là thủ đoạn của tội cưỡng ép kết hôn.
+ Mặt chủ quan của tội phạm:
Với các đặc điểm nêu trên, loại tội phạm này được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp, do rất nhiều động cơ khác nhau song đều chung mục đích là dẫn tới một quan hệ hôn nhân hoặc chấm dứt hôn nhân hoặc chấm dứt việc kết hôn mang tính ép buộc.
Mặt chủ quan của tội cưỡng ép kết hôn, ly hôn hoặc cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, cản trở ly hôn tự nguyện thể hiện: Người phạm tội thực hiện hành vi cưỡng ép kết hôn, ly hôn hoặc cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, cản trở ly hôn tự nguyện thực hiện hành vi của mình do cố ý, tức là người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là cưỡng ép kết hôn, ly hôn hoặc cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, cản trở ly hôn tự nguyện của họ, thấy trước được hậu quả và mong muốn cho hậu quả đó xảy ra. Đối với tội cưỡng ép hoặc cản trở hôn nhân tự nguyên, tiến bộ người phạm tội bao giờ cũng mong muốn cho hậu quả xảy ra. Mục đích là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm.
+ Chủ thể của tội phạm: Chủ thể của tội phạm là người đã thành niên, có năng lực trách nhiệm hình sự.
4. Tội vi phạm chế độ hôn nhân một vợ, một chồng.
Điều 182. Tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng
1. Người nào đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm:
a) Làm cho quan hệ hôn nhân của một hoặc hai bên dẫn đến ly hôn;
b) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Làm cho vợ, chồng hoặc con của một trong hai bên tự sát;
b) Đã có quyết định của Tòa án hủy việc kết hôn hoặc buộc phải chấm dứt việc chung sống như vợ chồng trái với chế độ một vợ, một chồng mà vẫn duy trì quan hệ đó.
5. Tội tổ chức tảo hôn.
Tảo hôn được hiểu là việc lấy vợ, lấy chồng khi một bên hoặc cả hai bên chưa đủ tuổi kết hôn theo quy định (nam chưa đủ 20 tuổi, nữ chưa đủ 18 tuổi).
Theo Bộ luật hình sự thì:
Điều 183. Tội tổ chức tảo hôn
Người nào tổ chức việc lấy vợ, lấy chồng cho những người chưa đến tuổi kết hôn, đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm.
6. Đánh vợ có bị truy cứu trách nhiệm hình sự không?
Tùy mức độ mà người chồng có thể bị xử lí vi phạm hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự.
Điều 185. Tội ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu hoặc người có công nuôi dưỡng mình
1. Người nào đối xử tồi tệ hoặc có hành vi bạo lực xâm phạm thân thể ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu hoặc người có công nuôi dưỡng mình thuộc một trong những trường hợp sau đây, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Thường xuyên làm cho nạn nhân bị đau đớn về thể xác, tinh thần;
b) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 05 năm:
a) Đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu;
b) Đối với người khuyết tật nặng, khuyết tật đặc biệt nặng hoặc người mắc bệnh hiểm nghèo.
Mọi vướng mắc pháp lý liên quan đến tội danh này, có thể tham khảo thêm ý kiến của luật sư thông qua tổng đài tư vấn pháp luật hình sự: 1900.6162 để được tư vấn thêm. Trân trọng./.