Mục lục bài viết
- 1. Hoạt động ngoại thương Việt Nam sau 2 năm gia nhập WTO
- 2. Thị trường bảo hiểm Việt Nam sau khi Việt Nam gia nhập WTO
- 3. Cam kết dịch vụ khi gia nhập WTO: Bình luận của người trong cuộc
- 4. Các biện pháp chống phá giá trong khuôn khổ WTO và pháp luật chống phá giá của Hoa Kỳ
- 5. Pháp luật kinh doanh bảo hiểm trước yêu cầu sửa đổi, bổ sung để phù hợp với cam kết WTO và thực tiễn
1. Hoạt động ngoại thương Việt Nam sau 2 năm gia nhập WTO
Sự phát triển của ngoại thương đã góp phần đưa nền kinh tế Việt Nam hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới; góp phần tăng tích luỹ nội bộ nền kinh tế nhờ sử dụng hiệu quả lợi thế so sánh trong trao đổi quốc tế; là động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế; nâng cao trình độ công nghệ và chuyển dịch cơ cấu ngành nghề trong nước; tạo việc làm, tăng thu nhập, cải thiện đời sống cho người lao động… Bài viết này sẽ tập trung làm rõ thực trạng hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá Việt Nam sau 2 năm gia nhập WTO để có thể thấy được những cơ hội và thách thức đối với hoạt động ngoại thương Việt Nam nói chung và xuất nhập khẩu hàng hoá Việt Nam nói riêng, từ đó có giải pháp hữu hiệu thúc đẩy hoạt động ngoại thương thời gian tới.
>> Luật sư tư vấn luật đầu tư nước ngoài trực tuyến gọi: 1900.6162
Luật sư tư vấn pháp luật đầu tư nước ngoài - Ảnh minh họa
Xuất nhập khẩu hàng hoá Việt Nam sau 2 năm gia nhập WTO
Sau 2 năm gia nhập WTO, hoạt động ngoại thương nói chung, đặc biệt hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá của Việt Nam nói riêng có nhiều thuận lợi để phát triển. Các nhà xuất khẩu Việt Nam có điều kiện tiếp cận thị trường thế giới dễ dàng hơn, những hạn chế và rào cản thuế đối với hàng hoá Việt Nam được cắt giảm. Chúng ta có thị trường xuất khẩu rộng lớn đã và sẽ được cắt giảm cùng các biện pháp phi quan thuế cũng sẽ được loại bỏ theo Nghị định thư gia nhập của các thành viên này mà không bị phân biệt đối xử; tăng cơ hội thâm nhập thị trường nước ngoài cho các sản phẩm của nước ta.
Về xuất khẩu hàng hoá: năm 2007, xuất khẩu đạt mức cao nhất từ trước đến nay và tăng trưởng với tốc độ cao. Kim ngạch xuất khẩu đạt 47,7 tỷ USD, tăng 21% so với năm 2006 (7,9 tỷ USD) và vượt 15,5% so với kế hoạch. Trong đó, khu vực kinh tế trong nước chiếm 42% và tăng 22,3%; khu vực FDI chiếm 58% và tăng 18,4%. Có 10 mặt hàng đạt trên 1 tỷ USD.
Năm 2008, giá trị xuất khẩu hàng hoá ước đạt 65 tỷ USD, tương đương 73% GDP, tăng 33,9% so với năm 2007. Tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá của năm 2008 đạt mức cao gấp nhiều lần so với những năm trước đó. Khu vực doanh nghiệp FDI đạt kim ngạch xuất khẩu 37,3 tỷ USD (kể cả dầu khí), chiếm tỷ trọng 57,4% tổng kim ngạch cả nước và tăng 34,6% so với năm 2007. Doanh nghiệp vốn trong nước chỉ đạt 27,7 tỷ USD, chiếm tỷ trọng 42,6% tổng kim ngạch cả nước và tăng 36,5% so với năm 2007.
Năm 2007 – 2008, tốc độ xuất khẩu tăng nhanh hơn 2 lần so với tốc độ tăng GDP; tổng kim ngạch xuất khẩu và nhập khẩu cao gấp 1,6 lần so với tổng giá trị GDP. Gia nhập WTO, tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho Việt Nam duy trì và mở rộng cả thị trường truyền thống và thị trường xuất nhập khẩu lớn của thế giới như Mỹ, EU và Nhật Bản, đến năm 2008 Việt Nam đã có quan hệ thương mại với 230 nước trên thế giới, trong đó hàng hoá của ta xuất sang 219 nước.
Trong 3 tháng đầu năm 2009, tổng kim ngạch xuất khẩu tăng. Một số mặt hàng tăng khá, mặt hàng gạo đạt 1.743 nghìn tấn, tăng 71,3%; Hạt tiêu: 25 nghìn tấn, tăng 64,5%. Chè tăng 10,2% về lượng và đạt 29 triệu ha, tăng 10,5% về kim ngạch. Rau quả đạt 91 triệu USD, tăng 2,6%…
Về nhập khẩu hàng hoá: đến nay Việt nam nhập khẩu từ 151 nước trên thế giới. Năm 2007, kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam là 60,8 tỷ USD, tăng 35,5% so với năm 2006, đứng thứ 41 trên thế giới. Năm 2007 nhập siêu lên trên 13,1 tỷ USD, bằng 27,5% kim ngạh xuất khẩu. Có 3 mặt hàng nhập siêu lớn hơn 2 lần so với năm 2006 là ôtô nguyên chiếc, xe máy nguyên chiếc và dầu mỡ động thực vật, không có mặt hàng nào giảm so với năm 2006 về kim ngạch.
Kim ngạch nhập khẩu năm 2008 của Việt nam đạt 84 tỷ USD, tăng 34% so với năm 2007. Trong đó kim ngạch nhập khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là 28,5 tỷ USD, chiếm 33,9% tổng kim ngạch nhập khẩu của các doanh nghiệp 100% vốn trong nước ước đạt 55,5 tỷ USD, chiếm 66,1% tổng kim ngạch nhập khẩu cả nước và tăng 35,5% so với năm 2007.
Các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu vẫn là máy móc, thiết bị, phụ tùng, xăng dầu, thép… Thị trường nhập khẩu năm 2008 tập trung chủ yếu vào Châu Á, trong đó nổi bật là các thị trường Trung Quốc, Singapore, Đài Loan, Hàn Quốc, Thái Lan…
Nhập khẩu quý I/ 2009 giảm mạnh, nhập khẩu tháng 1 đạt 3.344 triệu USD (giảm 55% so với cùng kỳ năm trước), tháng 2 đạt 4.188 triệu USD (giảm 31,9%), tháng 3 ước 4.300 triệu USD (giảm 45%). Một số mặt hàng giảm mạnh như: sữa và sản phẩm sữa (-20%), thức ăn gia súc và nguyên phụ liệu(-51,9%), xăng dầu (-60,2%), hoá chất ( -31,3%), sản phẩm hoá chất (-28,2%),…
Thời gian qua chúng ta cũng đã thực hiện tích cực các biện pháp kiềm chế nhập khẩu như tăng thuế nhập khẩu với một số mặt hàng như ôtô và linh kiện ôtô, vàng; kiểm soát nguồn ngoại tệ cho nhập khẩu; tiết giảm tiêu dùng và cắt giảm đầu tư…đã góp phần kiềm chế nhập khẩu và giảm nhập siêu một cách hiệu quả. Tuy việc nhập khẩu và tỷ lệ nhập siêu đang được kiềm chế, nhưng vẫn ở mức cao. Cụ thể mức nhập siêu năm 2007: 14,3 tỷ USD, tăng 2,8 lần năm 2006; 2008: nhập siêu 17,5 tỷ USD.
Bên cạnh những tác động thuận lợi khi gia nhập WTO, Việt Nam cũng gặp phải những thách thức như: Gia nhập WTO đòi hỏi tự do hoá thương mại và áp dụng các nguyên tắc tối huệ quốc và đối xử quốc gia, điều này tất yếu dẫn đến tình trạng cạnh tranh ngày càng quyết liệt ngay trên thị trường nội địa. Đặc biệt các doanh nghiệp Việt Nam vốn đã quen với việc sản xuất những hàng hoá và dịch vụ phục vụ thị trường nội địa trong điều kiện có bảo hộ bằng thuế quan hoặc các hàng rào phi thuế quan thì nay phải cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài, đây là một thách thức vô cùng lớn, nếu không có lợi thế tất yếu sẽ bị loại bỏ, trước hết là các doanh nghiệp thương mại. Như vậy sẽ gia tăng sức ép cạnh tranh quốc tế khắc nghiệt ngay trong thị trường nội địa. Các cơ sở xuất khẩu của Việt Nam chưa có biện pháp ứng phó hiệu quả với các rào cản thương mại và những biến động khó lường của thị trường thế giới, bởi các rào cản thương mại quốc tế được các nước nhập khẩu dựng lên ngày càng tinh vi, phức tạp và tỷ giá hối đoái biến động trên thị trường thế giới theo hướng bất lợi cho hoạt động xuất khẩu. Năng lực cạnh tranh phần lớn sản phẩm của ta là thấp. Hiện nay các mặt hàng có tiềm năng xuất khẩu hàng đầu của Việt nam vẫn là các mặt hàng sử dụng tài nguyên thiên nhiên và công nghiệp nhẹ, sử dụng lao động rẻ. Nhập siêu của Việt Nam hiện còn ở mức cao tác động xấu đến cán cân thương mại và cán cân thanh toán quốc tế. Mức thuế quan của Việt Nam còn tương đối cao so với các nước trong khu vực cũng như thế giới. Theo nguyên tắc của WTO là chỉ sử dụng thuế quan để bảo hộ sản xuất trong nước, do vậy Việt Nam phải xây dựng lộ trình cắt giảm các hàng rào phi thuế quan một cách hợp lý, đây cũng là thách thức đối với các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam…
Một số giải pháp đẩy mạnh hoạt động ngoại thương sau khi gia nhập WTO
Để hoạt động ngoại thương Việt Nam phát triển tốt, vượt qua được những thách thức và khó khăn, vẫn nằm trong danh sách các nước có tốc độ tăng trưởng xuất khẩu, nhập khẩu cao của khu vực và thế giới. Trong thời gian tới, Việt Nam cần thực hiện tốt một số nội dung cơ bản sau:
Một là, tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến kiến thức và luật lệ cuả WTO, để nâng cao nhận thức và sự hiểu biết, tạo sự đồng thuận đối với các doanh nghiệp và cộng đồng dân cư. Đây là điều quan trọng giúp họ hiểu được tổ chức này, những lợi ích mà tổ chức này mang lại, nhận thức được những thách thức khi gia nhập WTO nhằm tìm phương cách để khai thác cơ hội, vượt qua thách thức, ứng xử hợp lý và hiệu quả nhất để xây dựng nền xuất khẩu Việt Nam mang tính cạnh tranh và đạt hiệu quả cao.
Hai là, phải tăng kim ngạch xuất khẩu để đáp ứng nhu cầu nhập khẩu.Để phát triển sản xuất, nâng cao đời sống nhân dân trong nền kinh tế “mở”, hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế thế giới thì đòi hỏi phải tăng nhập khẩu những hàng hoá mà không phải là thế mạnh của chúng ta như máy móc, thiết bị, công nghệ…Do vậy yêu cầu đối với chúng ta là phải tăng kim ngạch xuất khẩu. Muốn vậy phải xây dựng quy hoạch, chính sách và chiến lược để xây dựng các vùng sản xuất và các vùng nguyên liệu tập trung, các vùng sản xuất lớn cho các ngành, doanh nghiệp sản xuất mặt hàng xuất khẩu, có như vậy mới giảm nhập siêu, giảm chi phí sản xuất và kinh doanh xuất khẩu. Đẩy mạnh xuất khẩu các mặt hàng chế biến có giá trị gia tăng và năng suất lao động cao. Hoàn thiện cơ chế quản lý xuất nhập khẩu như triển khai các công cụ quản lý xuất nhập khẩu mới phù hợp với yêu cầu hội nhập và các cam kết quốc tế.
Ba là, xây dựng và phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng. Kết cấu hạ tầng tốt sẽ thúc đẩy và tạo điều kiện cho các hoạt động ngoại thương thực hiện có hiệu quả. Ngược lại nó sẽ làm giảm hiệu quả của các hoạt động ngoại thương. Đặc biệt xây dựng các khu kinh tế mở, các đặc khu kinh tế và hệ thống sân bay, bến cảng có tính khu vực và quốc tế. Hình thành mạng lưới hạ tầng liên kết và hiện đại, tạo điều kiện nâng cao hiệu quả hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá. Đẩy mạnh ứng dụng các phương thức thương mại hiện đại, thương mại điện tử, công nghệ thông tin trong hoạt động thương mại. Xây dựng và củng cố các tiêu chuẩn quản trị chất lượng như ISO, HACCP, ISO-14000, GMP…
Bốn là, đẩy mạnh cải cách hành chính trong hoạt động xuất nhập khẩu, xoá bỏ các thủ tục rườm rà, tạo môi trường thuận lợi và thông thoáng cho các hoạt động xuất nhập khẩu theo hướng thị trường, phù hợp với các cam kết của WTO. Bản thân các chính sách thông thoáng lại tạo nền tảng cho cải cách hành chính trong xuất nhập khẩu. Kịp thời phát hiện khó khăn của doanh nghiệp để bổ sung, sửa đổi nhanh các thủ tục hành chính đảm bảo đơn giản, gọn nhẹ, công khai, minh bạch. Thủ tục hành chính cũng phải được thể chế hoá để nghiêm minh, tránh tuỳ tiện trong thực hiện.
Năm là, nâng cao sức cạnh tranh của các doanh nghiệp và sản phẩm xuất khẩu. Nâng cao năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Các doanh nghiệp xuất khẩu hàng hoá Việt Nam phải giữ được chữ tín với khách hàng, cần chú trọng tập trung các nguồn lực, đổi mới sản xuất kinh doanh, đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ, cải tiến kỹ thuật, nâng cao chất lượng sản phẩm, tiết kiệm chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm, xây dựng chiến lược sản phẩm có khả năng cạnh tranh trong nước và thế giới, đẩy mạnh sản xuất, đặc biệt là sản xuất các mặt hàng có lợi thế cạnh tranh và xuất khẩu phù hợp tiêu chuẩn quốc tế. Chú trọng phát triển ngành công nghiệp phụ trợ phục vụ sản xuất hàng xuất khẩu. Cần phải đa dạng hoá thị trường xuất khẩu, phương thức thanh toán, cách thức xuất nhập khẩu hàng hoá theo hướng mang lại ích lợi nhất cho các doanh nghiệp.
Sáu là, đẩy mạnh công tác xúc tiến thương mại, chú trọng giới thiệu hàng hoá Việt Nam trên thị trường khu vực và thế giới. Xây dựng và củng cố thương hiệu sản phẩm của mình phải tiến hành đăng ký cho từng loại sản phẩm, nhất là sự chuẩn bị đầu tư nguồn lực cho các hoạt động đăng ký bảo hộ thương hiệu và bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá tại nước ngoài. Xây dựng chiến lược sản phẩm, đây là giải pháp nhằm làm cơ sở và định hướng, từng bước tạo lập tên tuổi và khẳng định uy tín của mình trên thị trường. Xây dựng và phát triển các tổ chức xúc tiến thương mại, trợ cấp thích hợp. Đây là điều cần thiết, đầu mối giúp các doanh nghiệp thâm nhập thị trường nước ngoài, cung cấp thông tin thương mại, nghiên cứu thị trường…Các ngành, các doanh nghiệp phải chủ động tích cực tìm kiếm thị trường mới, phát triển thị trường Châu Phi, Nam Mỹ và Trung Đông. Đồng thời trong bối cảnh khó khăn về thị trường xuất khẩu, các doanh nghiệp cần chú trọng tập trung vào cả thị trường trong nước, đẩy mạnh xuất khẩu tại chỗ. Tổ chức tốt công tác xúc tiến thương mại trong việc cung cấp thông tin thị trường, giới thiệu cơ hội làm ăn, tư vấn pháp lý về các lĩnh vực liên quan tới thương mại quốc tế.
Bảy là, phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt chú trọng nâng cao số lượng và chất lượng nguồn nhân lực cho xuất khẩu là yêu cầu cấp bách để đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng và đảm bảo sự phát triển bền vững của nền kinh tế trong quá trình hội nhập quốc tế. Chú trọng đào tạo đội ngũ cán bộ hoạt động kinh tế đối ngoại có bản lĩnh chính trị, vững vàng trong môi trường vừa hợp tác vừa đấu tranh. Trang bị tốt kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ, thông thạo ngoại ngữ, nắm vững luật lệ, pháp luật và có năng lực đàm phán quốc tế. Có thể nói, phát triển nguồn nhân lực chính là chiếc “chìa khoá” của sự thành công trong hội nhập, yếu tố quan trọng của sự phát triển nhanh và bền vững./.
SOURCE: TẠP CHÍ KINH TẾ VÀ DỰ BÁO SỐ 12 (452) THÁNG 6 NĂM 2009 - HOÀNG THỊ BÍCH LOAN
(LUATMINHKHUE.VN: Bài viết được đăng tải nhằm mục đích giáo dục, phổ biến, tuyên truyền pháp luật và chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước không nhằm mục đích thương mại. Thông tin nêu trên chỉ có giá trị tham khảo và có thể một số thông tin pháp lý đã hết hiệu lực tại thời điểm hiện tại vì vậy Quý khách khi đọc thông tin này cần tham khảo ý kiến luật sư, chuyên gia tư vấn trước khi áp dụng vào thực tế.)
2. Thị trường bảo hiểm Việt Nam sau khi Việt Nam gia nhập WTO
Điều đáng lo ngại là việc mở cửa hội nhập thị trưởng bảo hiểm và tự do hóa thương mại dịch vụ bảo hiểm theo chuẩn mực quốc tế có gây biến động cho thị trường bảo hiểm VN, có ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp bảo hiểm (DNBH), ảnh hưởng đến quyền và lợi ích chính đáng của người tham gia bảo hiểm hay không, nhất là bảo hiểm là một trong những dịch vụ tài chính nhạy cảm cao. Bài viết này sẽ góp phần giải quyết những vấn đề nêu trên.
I . Những nội dung chủ yếu cam kết WTO trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm
1. Các cam kết chung đối với các DNBH đang hoạt động ở nước ngoài: được phép thành lập văn phòng đại diện tại VN; nếu đáp ứng đủ các điều kiện được phép thành lập DNBH 100% vốn nước ngoài tại VN; được phép thành lập công ty liên doanh kinh doanh bảo hiểm; được phép mua cổ phần trong các DN VN không vượt quá tỉ lệ vốn điều lệ của DN đó theo quy định của cơ quan có thẩm quyền; và các DN có vốn đầu tư nước ngoài được phép thuê đất theo dự án đầu tư của mình.
2. Các cam kết riêng trong lĩnh vực hoạt động KDBH
DNBH hoạt động ở nước ngoài được cung cấp dịch vụ BH vào VN đối với: dịch vụ BH cung cấp cho các DN có vốn đầu tư nước ngoài và người nước ngoài làm việc tại VN; dịch vụ tái bảo hiểm; dịch vụ vận tải quốc tế, bao gồm vận tải biển quốc tế, vận tải hàng không thương mại quốc tế (cả phương tiện, hàng hóa vận chuyển và bất kì trách nhiệm nào phát sinh từ đó) và hàng hóa vận chuyển quá cảnh quốc tế; dịch vụ môi giới BH và môi giới tái bảo hiểm; dịch vụ tư vấn, dịch vụ tính toán, đánh giá rủi ro và giải quyết bồi thường.
.
Luật sư tư vấn luật bảo hiểm xã hội trực tuyến (24/7) gọi số : 1900.6162
DNBH có vốn nước ngoài đang hoạt động tại VN: kể từ ngày 1/1/2008 các DNBH 100% vốn đầu tư nước ngoài được phép kinh doanh các dịch vụ BH bắt buộc.
Chi nhánh của DNBH nước ngoài: Sau 5 năm kể từ khi gia nhập WTO, DNBH nước ngoài được phép thành lập chi nhánh BH Phi nhân thọ tại VN, căn cứ vào các qui định quản lý thận trọng.
Như vậy, các DNBH có vốn đầu tư nước ngoài kể từ ngày 1/1/2008 đã được phép đối xử quốc gia, và được bình đẳng như các DNBH của VN. Các hạn chế về tái BH bắt buộc 20%, không được bán BH vào khu vực kinh tế nhà nước, hạn chế về mở chi nhánh của DNBH có vốn đầu tư nước ngoài đương nhiên bị bãi bỏ ngay sau khi VN gia nhập WTO. Nội dung cam kết của VN với WTO trong lĩnh vực BH tương tự với nội dung VN đã cam kết với Mỹ tại Hiệp định thương mại Việt Mỹ đã ký kết cách đây 5 năm. Có nghĩa là phạm vi áp dụng cam kết WTO của VN được mở rộng ra không những với Mỹ mà còn với tất cả các nước thành viên WTO. Điều này đồng nghĩa với VN đã có sự cảnh báo với các DNBH VN, đã có sự chuẩn bị trước 5 năm những gì chúng ta đã cam kết với WTO trong lĩnh vực BH, thể hiện trong Hiệp định thương mại Việt – Mỹ (BTA).
II. Sự chuẩn bị mở cửa thị trường hội nhập quốc tế của VN trước khi gia nhập WTO trong lĩnh vực bảo hiểm
1. Đặc thù của hoạt động KDBH, mỗi DNBH đều có tính hợp tác hội nhập quốc tế
Trước hết, sản phẩm BH dễ bắt chước và được phát triển tuân theo chuẩn mực quốc tế. Nhiều sản phẩm BH mang tính quốc tế cao kể cả đơn BH, điều khoản điều kiện BH như BH hàng hóa vận chuyển bằng đường biển điều kiện A, B, C; BH P&I; BH hỏa hoạn và mọi rủi ro đặc biệt… Vì vậy, khi thành lập và đi vào hoạt động các DNBH thường là kế thừa các sản phẩm BH đã có sẵn trên thị trường BH quốc tế và trong nước. Hơn nữa, vì năng lực tài chính của từng DNBH còn hạn chế nên hầu hết các DNBH đều phải tái BH cho các DNBH hoặc công ty chuyên tái BH trong nước và ngoài nước. Điều này có nghĩa là các điều khoản điều kiện BH cũng như phí BH của DN nhận BH (BH gốc) có tính tương đồng với DN nhận tái BH trong nước và quốc tế. Đặc thù này chứng tỏ ở từng DNBH, hoạt động KDBH đều có tính hợp tác và hội nhập với thị trường BH trong nước và quốc tế.
2. Sự hình thành thị trường BHVN và mở cửa hội nhập quốc tế từ năm 1993
Ngày 18/12/1993, Chính phủ ra NĐ100/1993/NĐ-CP quy định về việc thành lập và tổ chức hoạt động của các DNBH tại VN. Trên cơ sở đó, ngoài Bảo Việt thành lập năm 1964, lần lượt các DNBH khác được cấp phép hoạt động, bao gồm:
DNBH Phi nhân thọ VN: Bảo Minh (1994), PJICO (1995), Bảo Long (1995), PVI (1996), PTI (1998)…
DNBH Phi nhân thọ có vốn nước ngoài: VIA (1996), UIC (1997), Allianz (1999), Việt Úc (1999)…
DNBH Nhân thọ VN: Bảo Việt Nhân thọ (1996 triển khai thí điểm).
DNBH Nhân thọ có vốn nước ngoài: Bảo Minh CMG (1999), Prudential (1999), Manulife (1999)…
DN môi giới BH AON (1999)…
DN tái BH VINARE (1994).
Năm 2000, Luật kinh doanh BH ra đời và có hiệu lực từ ngày 1/4/2001. Việc thành lập, hoạt động KDBH được điều chỉnh bởi Luật KDBH và các văn bản pháp quy ban hành. Đặc biệt năm 2003, Vụ Bảo hiểm được thành lập trên cơ sở tách bộ phận quản lý BH từ Vụ Quản lý Ngân hàng và các tổ chức tài chính, tạo nên sự quản lý nhà nước trong hoạt động KDBH chuyên trách và sâu sát hơn, thích ứng với sự phát triển của thị trường BH và hội nhập quốc tế. Tính đến hết năm 2006, trước thời điểm cam kết WTO có hiệu lực, thị trường BHVN đã có 21 DNBH Phi nhân thọ, trong đó có 2 DNBH nhà nước, 4 DNBH liên doanh, 5 DNBH có 100% vốn nước ngoài; 7 DNBH Nhân thọ, trong đó có 1 DNBH nhà nước và 6 DNBH 100% vốn nước ngoài; 8 DN môi giới BH trong đó có 5 công ty cổ phần và 3 công ty 100% vốn nước ngoài; 1 DN tái bảo hiểm là công ty cổ phần. Các DNBH vừa cạnh tranh vừa hợp tác với nhau nhằm cung cấp cho thị trường BH những sản phẩm BH có lợi hơn cho người tham gia BH, đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế xã hội của từng thời kì, giai đoạn phát triển của đất nước. Nhu cầu hợp tác, hội nhập quốc tế, nâng cao năng lực cạnh tranh của từng DNBH, phát triển thị trường BH VN đã dẫn đến sự ra đời tất yếu của Hiệp hội BH VN ngày 25/12/1999 với 10 DNBH có mặt trên thị trường là hội viên chính thức, hội viên sáng lập.
3. Năng lực hoạt động của các DNBH ngày một nâng lên rõ rệt
Tính đến hết năm 2006, vốn điều lệ của các DNBH Phi nhân thọ là 3.255 tỉ đồng và 74,4 triệu USD (tương đương 1.190,4 tỉ đồng); các DNBH Nhân thọ có vốn điều lệ là 1.500 tỉ đồng và 180 triệu USD (tương đương 2.880 tỉ đồng); các DN môi giới BH có vốn điều lệ 28 tỉ đồng và 0,9 triệu USD (tương đương 14,4 tỉ đồng); DN tái bảo hiểm có vốn điều lệ 500 tỉ đồng. Tổng tài sản của các DNBH Phi nhân thọ 8.215 tỉ đồng, các DNBH Nhân thọ 30.388 tỉ đồng, DN tái bảo hiểm 875 tỉ đồng. Doanh thu phí BH gốc của các DNBH Phi nhân thọ 6.445 tỉ đồng, các DNBH Nhân thọ 8.483 tỉ đồng. Đầu tư tài chính của các DNBH vào nền kinh tế quốc dân: DNBH Phi nhân thọ 5.143 tỉ đồng, DNBH Nhân thọ 25.533 tỉ đồng.
Những yếu tố trên đã góp phần tích cực nâng cao uy tín DNBH, giảm đáng kể tỉ trọng tái BH ra nước ngoài, tăng nhanh quỹ dự phòng nghiệp vụ BH, thu được nhiều lãi đầu tư để chia cổ tức cho cổ đông và tăng bảo tức cho người tham gia BH Nhân thọ.
4. Số lượng sản phẩm BH phong phú đa dạng, kênh phân phối sản phẩm BH ngày càng mở rộng
Đến cuối năm 2006, đã có hơn 700 sản phẩm BH Phi nhân thọ và hơn 100 sản phẩm BH Nhân thọ. Các sản phẩm BH ngày càng đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế xã hội và tuân thủ theo chuẩn mực quốc tế. Đặc biệt, sản phẩm BH đã đáp ứng được yêu cầu phát triển một số ngành nghề quan trọng như dầu khí, hàng không, đóng tầu, xây dựng cầu đường, gián tiếp góp phần tăng cường thu hút vốn đầu tư nước ngoài và khuyến khích đầu tư trong nước. Các DNBH Nhân thọ đi đầu trong việc phát triển kênh phân phối sản phẩm BH qua đại lý. Các DNBH Phi nhân thọ đã bước đầu hình thành kênh phân phối sản phẩm BH qua đại lý BH chuyên nghiệp và bán chuyên nghiệp. Ngoài ra, các công ty môi giới BH đã góp phần khai thác BH Phi nhân thọ với tỉ lệ gần 12% doanh thu BH gốc, chủ yếu là với các đối tượng BH có giá trị lớn, đánh giá rủi ro phức tạp nhằm bảo vệ quyền lợi người tham gia BH. Tính đến cuối năm 2006, toàn ngành BH có 75.000 đại lý BH Nhân thọ chuyên nghiệp, 30.000 đại lý BH Phi nhân thọ bán chuyên nghiệp, và 8 DN môi giới BH.
5. Các DNBH đã chú trọng ưu tiên cho đào tạo phát triển nguồn nhân lực và đầu tư cho công nghệ thông tin phục vụ cho nhu cầu quản lý giám sát BH
Hầu hết các DNBH đều xây dựng tiêu chuẩn hóa đội ngũ cán bộ cho từng chức danh, nhiệm vụ. Từ đó, các DNBH yêu cầu cán bộ của mình tham dự các khóa đào tạo phục vụ cho vị trí công tác theo hình thức được DN tài trợ thời gian và chi phí hoặc tự bỏ thời gian và chi phí đào tạo tại trung tâm đào tạo của DN hoặc các cơ sở đào tạo trong và ngoài nước. Các DNBH có quy mô lớn đã xây dựng được trung tâm đào tạo của mình như Bảo Việt, Bảo Minh, PJICO và các DNBH Nhân thọ. Các đại lý BH được tuyển dụng và đào tạo theo đúng qui định của Luật kinh doanh BH. Nhiều DNBH đã đầu tư xây dựng phần mềm quản lý giám sát BH cũng như đầu tư công nghệ của mua sắm trang thiết bị thông tin như Bảo Việt, Bảo Minh, Prudential, AIA, Manulife…
Nguồn nhân lực chuyên nghiệp và công nghệ thông tin tiên tiến là 2 yếu tố góp nên sức mạnh của DNBH trên con đường nâng cao năng lực cạnh tranh, giảm chi phí quản lý, nâng cao chất lượng khai thác, xử lý bồi thường, đánh giá rủi ro, phòng chống trục lợi BH và nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng.
6. Các DNBH đã làm quen và chấp nhận cạnh tranh sòng phẳng
Thị trường BHVN với nhiều DNBH, nhiều loại hình sở hữu khác nhau nên sự cạnh tranh là tất yếu xảy ra, bắt đầu từ năm 1993. Đặc biệt, các DNBH VN là DN nhà nước hoặc tuy là công ty cổ phần nhưng sở hữu nhà nước là chủ yếu, bị sức ép là luôn phải có lãi và bị hạn chế ở các khoản mục chi tiêu cho tiếp thị quảng bá thương hiệu sản phẩm trong khi các DNBH mới thành lập nhất là DNBH có vốn nước ngoài được phép thua lỗ kế hoạch trong nhiều năm đã tranh thủ tiếp cận thị trường, tăng cường quảng bá thương hiệu sản phẩm. Song thực tế trong 15 năm qua (1993 – 2008), các DNBHVN vẫn vững vàng trên thị trường, tìm được thế mạnh của mình trong cạnh tranh, sẵn sàng cạnh tranh với các DNBH có yếu tố nước ngoài. Bảo Việt Nhân thọ là DNBHVN đã một mình cạnh tranh với các DNBH Nhân thọ nước ngoài còn lại là một bằng chứng cho sự cố gắng lớn của Bảo Việt. Ngoài ra, các DNBH nhân thọ còn phải với các dịch vụ tài chính khác như tín dụng ngân hàng, chứng khoán, kinh doanh bất động sản, những người cùng một mục đích thu hút tiền nhàn rỗi trong dân cư và các tổ chức kinh tế, xã hội.
7. Chế độ quản lý nhà nước về hoạt động KDBH ngày càng hoàn thiện
Luật KDBH ban hành năm 2000, NĐ42, NĐ43 ban hành năm 2001, TT98, TT99 hướng dẫn thi hành Luật KDBH ban hành năm 2004, NĐ118 xử phạt vi phạm trong KDBH, QĐ175 phê chuẩn chiến lược phát triển ngành BH đến 2010, QĐ53 ban hành chỉ tiêu giám sát DNBH. Môi trường pháp lý KDBH ngày càng thuận lợi cho ngành BH như Luật hàng hải, Luật hàng không, Luật giao thông đường bộ, Luật giao thông thủy nội địa, Luật phòng cháy chữa cháy, Bộ luật dân sự và một số sản phẩm BH bắt buộc được ban hành như BHBB TNDS chủ xe cơ giới, xây dựng, lắp đặt, TNDS người kinh doanh vận tải thủy nội địa…
III. Những cơ hội của ngành bảo hiểm khi VN gia nhập WTO
1. Nền kinh tế tiếp tục tăng trưởng cao, hàng hóa của VN sẽ có một thị trường rộng lớn hơn đó là các thành viên WTO đồng thời hàng hóa nước họ sẽ được xâm nhập vào thị trường VN làm cho kinh tế phát triển tạo tiền đề cho các ngành nghề phát triển như giao thông vận tải đường bộ, hàng không, xuất nhập khẩu làm tiền đề cho BH phát triển. Nền kinh tế tăng trưởng cao đòi hỏi nhu cầu vốn và nhu cầu BH phải đáp ứng, từ đó làm tiền đề cho BH nhân thọ, tín dụng ngân hàng, chứng khoán phát triển. Vốn tích lũy tích tụ từ dự phòng nghiệp vụ BH có nhiều cơ hội đầu tư sinh lãi cao, khuyến khích BH phát triển.
2. Đầu tư trực tiếp nước ngoài và đầu tư trong nước phát triển nhanh chóng
Đây cũng là cơ sở để ngành BH phát triển, đồng thời cũng đòi hỏi ngành BH phải có sản phẩm BH đáp ứng nhu cầu của tăng trưởng đầu tư nước ngoài và trong nước, nhất là những cơ sở đầu tư ngành nghề mới, công nghệ cao như đóng tàu, xây dựng đường tàu điện ngầm, xây dựng ngành điện tử công nghệ thông tin, xây dựng nhà máy lọc dầu, điện nguyên tử, vệ tinh, sản xuất linh kiện máy bay… Đây là tiềm năng cho BH xây dựng lắp đặt, BH tài sản, BH kĩ thuật, BH trách nhiệm phát triển.
3. Lộ trình cổ phần hóa chuẩn bị hoàn thành
Chế độ sở hữu tư nhân buộc người điều hành DN (có thể là người làm thuê) muốn bảo toàn vốn và tài sản trước mọi rủi ro cần phải có BH làm tăng nhu cầu BH để ngành BH phát triển. Khi các chủ DN coi trọng BH là lá chắn trước mọi rủi ro, tai nạn bất ngờ, khi người mua BH (nhân viên của DNBH) không có cơ hội đòi hỏi hoa hồng hoặc lựa chọn hoa hồng cao hay thấp thì thị trường BH sẽ có nhiều cơ hội phát triển lành mạnh
4. Sự trợ cấp của Nhà nước ở một số lĩnh vực sẽ giảm dần
Cùng với sự xã hội hóa hoạt động thể dục thể thao, y tế, văn hóa giáo dục đã kích thích nhu cầu tham gia BH như việc tăng học phí, viện phí, xây dựng mức trần của BH xã hội sẽ làm tăng thêm nhu cầu BH nhân thọ. BH phi nhân thọ chăm sóc y tế, tai nạn con người. Sự trợ cấp của nhà nước càng giảm thì sự lo lắng thiên tai, tai nạn xảy ra bất ngờ dẫn đến người ta phải nghĩ tới BH.
5. Pháp luật ngày càng hoàn thiện và mang tính tương thích với nhau nhằm bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của người tiêu dùng của DN ngày một tốt hơn làm phát sinh theo nhu cầu BH như:
BH trách nhiệm nghề nghiệp bác sĩ, luật sư, tư vấn thiết kế…; BH tài sản; BH rủi ro tài chính; BH trách nhiệm sản phẩm của các tổ chức sản xuất, kinh doanh; BH trách nhiệm dân sự của các chủ doanh nghiệp… Luật KDBH sẽ được sửa đổi, bổ sung, tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước, phát huy tính chủ động, sáng tạo của DNBH, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của người tham gia BH là môi trường thuận lợi để thị trường BH phát triển.
6. Tầng lớp dân cư có thu nhập cao ngày càng đông đảo, bao gồm giới chủ DN tư nhân, các chuyên gia giỏi trong DNVN và DN có vốn đầu tư nước ngoài, các chủ hộ kinh doanh, các chủ trang trại đều có nhu cầu BH Nhân thọ cho mình và người thân.
7. Nhận thức về nhu cầu, tác dụng của BH ngày một nâng cao thông qua công tác tuyên truyền của ngành BH, thông qua tập quán mua BH của giới chủ đầu tư nước ngoài sẽ ảnh hưởng lớn đến nhận thức của những khách hàng tiềm năng có nhu cầu dẫn tới quyết định tham gia BH ngày một đông đảo hơn.
IV. Những thách thức lớn đối với ngành bảo hiểm cần vượt qua
1. Số lượng các DNBH được cấp phép hoạt động ngày một gia tăng
Các tổ chức, các nhân trong và ngoài nước nếu đủ điều kiện thao luật định đều có quyền xin phép thành lập DNBH, trong đó có các DNBH nước ngoài theo đúng cam kết WTO. Điều này gần như đương nhiên vì tiềm năng và cơ hội phát triển của thị trường BH nhân thọ và phi nhân thọ còn đầy hứa hẹn, tốc độ tăng trưởng của ngành BH tương đối hấp dẫn, BH còn được dùng dự phòng nghiệp vụ BH vào đầu tư tài chính có khả năng sinh lời cao. Tuy nhiên, việc có nhiều DNBH ra đời làm cho sự cạnh tranh vốn đã gay gắt này càng gay gắt hơn. Sự chảy máu chất xám nguồn nhân lực chủ chốt sang DNBH mới cũng là điều đáng lo ngại.
2. DNBH hoạt động ở nước ngoài được cung cấp một số sản phẩm BH qua biên giới (vào VN)
Đây là điều đáng lo ngại trong cuộc cạnh tranh không cân sức đối với các DNBH đang hoạt động tại VN (DNVN, liên doanh, 100% vốn nước ngoài). Trước hết, họ không thể biết được thông tin về đối thủ cạnh tranh của họ (DNBH đang hoạt động ở nước ngoài) cụ thể là ai đang bán sản phẩm BH vào VN. Thứ hai, vũ khí của đối thủ đang sử dụng là loại gì không được biết rõ: đơn BH, điều khoản BH, điều kiện BH, phí BH như thế nào? Thứ ba, DNBH đang hoạt động tại VN phải đóng thuế cho ngân sách nhà nước như thuế VAT, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế môn bài, thuế sử dụng đất… để hoạt động kinh doanh có doanh thu từ VN, trong khi đó đối thủ không bị đóng góp các khoản thuế trên. Trong một cuộc chiến, “Biết địch biết ta, trăm trận trăm thắng”. DNBH đang hoạt động ở nước ngoài biết rất rõ DNBH đang hoạt động tại VN, song DNBH đang hoạt động tại VN lại không biết gì về DNBH đang hoạt động tại nước ngoài đang ngấm ngầm cùng chia chiếc bánh thị trường BHVN.
3. Kênh phân phối sản phẩm BH đã bộc lộ nhiều yếu kém
BH nhân thọ sau một thời gian tăng trưởng nhanh đi cùng với tăng trưởng mở rộng kênh phân phối qua đại lý, có nghĩa là cứ tăng đại lý là có tăng doanh thu nên nhiều DN chưa chú trọng đến chất lượng tuyển chọn đào tạo và sử dụng đại lý. Rất may, những năm gần đây tăng trưởng bị chững lại, các DNBH đã nhận thức ra được vấn đề để quan tâm, đầu tư công sức hơn cho việc nâng cao chất lượng đại lý BH. BH phi nhân thọ vẫn giữ cung cách khai thác chủ yếu từ cán bộ BH, cạnh tranh về phí BH, tăng hoa hồng, tăng hỗ trợ cho đại lý, chưa xây dựng được đội ngũ đại lý BH phi nhân thọ mang tính chuyên nghiệp. Các công ty môi giới cạnh tranh lẫn nhau, làm việc thiếu chuyên nghiệp, tự ý bổ sung điều kiện, điều khoản BH, hạ phí BH gây bất lợi cho DNBH và thị trường BH.
4. Đầu tư công nghệ thiếu đồng bộ, kém hiệu quả
Hệ thống công nghệ thông tin của các DNBH chưa cập nhật được từng hợp đồng BH phát sinh, chưa phân loại được khách hàng, rủi ro BH, chưa phân tích đánh giá được nguyên nhân, mức độ rủi ro tổn thất, còn nhiều lỗ hổng để trục lợi BH. Chúng ta không thể chấp nhận được việc một xe ô tô bị tai nạn đã mua BH biết được biển số xe nhưng các DNBH đùn đẩy cho nhau và cho rằng mình không bán BH cho chiếc xe này. Điều này bộc lộ rõ sự yếu kém của các DNBH trong hệ thống công nghệ thông tin.
5. Cạnh tranh gay gắt chủ yếu bằng con đường hạ phí BH, không chú trọng nhiều đến dịch vụ chăm sóc khách hàng
Phí BH trên thị trường BHVN hiện nay được hình thành chủ yếu qua con đường cạnh tranh hạ phí phi kĩ thuật mà không quan tâm đến đối tượng BH như thế nào, mức độ rủi ro ra sao. Phí BH một khách sạn 5 sao chỉ tương đương với phí BH một chiếc xe ô tô trị giá 1 tỉ đồng là một điều phi lý mà trên thị trường vẫn có DNBH chấp nhận để giành bằng được dịch vụ BH. Một trong những nguyên nhân có nguồn gốc sâu xa là chế độ khoán tiền lương và chi phí theo doanh thu không chú trọng đến bồi thường có thể xảy ra (lời cam kết của DNBH đến khách hàng). Tình trạng này dẫn đến không những các DNBH cạnh tranh lẫn nhau mà còn có sự cạnh tranh giữa các chi nhánh trong cùng một DNBH. Chính vì vậy, việc quan tâm chăm sóc khách hàng cung cấp dịch vụ gia tăng bổ sung cho khách hàng cũng bị hạn chế.
6. Việc giải quyết bồi thường còn nhiều vướng mắc
Trước hết, tính công khai minh bạch về hồ sơ, thủ tục giải quyết bồi thường chưa được thực hiện. Thứ hai, việc đơn giản hóa hồ sơ, thủ tục bồi thường giảm phiền phức cho khách hàng chưa được cải thiện rõ rệt. Thứ ba, còn nhiều vướng mắc trong việc thu thập hồ sơ chứng từ để giải quyết bồi thường cho nạn nhân khi những hồ sơ chứng từ này buộc phải lấy từ cơ quan có thẩm quyền như công an, bệnh viện. Thứ tư, việc tự quyết, tự chịu trách nhiệm của DNBH trong việc giám định bồi thường tổn thất chưa được phát huy và hay bị hình sự hóa. Thứ năm, các DN hoạt động trong lĩnh vực tư vấn giám định và giải quyết bồi thường (trung gian giữa DNBH và khách hàng) chưa hoạt động có hiệu quả và phán quyết của họ nhiều khi không được pháp luật công nhận. Cuối cùng là chưa có biện pháp xử phạt thích đáng DNBH trong việc chậm trễ bồi thường cũng như xử phạt thích đáng các hành vi trục lợi BH.
IV. Các giải pháp phát triển thị trường bảo hiểm VN sau WTO
Xây dựng một hàng rào kỹ thuật về tiêu chuẩn thành lập DNBH và hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Đây sẽ là một sự sang lọc cần thiết hợp lý không vi phạm WTO nhằm lựa chọn tốt nhất các tổ chức cá nhân trong và ngoài nước có nguyện vọng thành lập DNBH hoạt động tại VN lâu dài và đóng góp cho sự phát triển thị trường bảo hiểm. Những tiêu chuẩn cơ bản bao gồm:
Lịch sử và kinh nghiệm tổ chức hoạt động kinh doanh bảo hiểm của người tham gia thành lập,
Dự kiến các sản phẩm bảo hiểm đưa ra thị trường phù hợp với nhu cầu của nền kinh tế xã hội, không tạo ra cạnh tranh gay gắt và góp phần phát triển thị trường bảo hiểm,
Có bộ máy tổ chức lãnh đạo điều hành và nghiệp vụ bảo hiểm năng lực thể hiện ở kinh nghiệm và bằng cấp của người đảm nhiệm từng chức vụ,
Có hệ thống công nghệ thông tin đáp ứng nhu cầu triển khai phát triển sản phẩm bảo hiểm, quản lý giám sát hoạt động kinh doanh bảo hiểm,
Có nguồn vốn chủ sở hữu lớn hơn hoặc bằng vốn pháp định để đảm bảo kinh doanh bảo hiểm lâu dài tại VN, tạo điều kiện đầu tư công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực, nghiên cứu phát triển và đảm bảo biên khả năng thanh toán cho khách hàng.
Hoàn thiện từng bước luật kinh doanh bảo hiểm và các văn bản hướng dẫn phù hợp với cam kết WTO, phù hợp với chuẩn mực quốc tế quản lý nhà nước về hoạt động kinh doanh bảo hiểm.
Chúng ta đã tiến hành sửa đổi một số Nghị định, Thông tư hướng dẫn Luật kinh doanh bảo hiểm và ban hành NĐ 45, 46 (thay thế NĐ 42, NĐ 43) ngày 27/3/2007, Thông tư 155, Thông tư 156 (thay thế TT 98, 99) ngày 20/12/2007, QĐ 96 của Bộ Tài chính ngày 19/11/2007 ban hành Quy chế triển khai sản phẩm bảo hiểm liên kết chung và QĐ 102 ngày 14/12/2007 ban hành Quy chế triển khai sản phẩm bảo hiểm liên kết đơn vị. QĐ 23 của Bộ Tài chính ngày 9/4/2007 ban hành Quy tắc biểu phí BHBB TNDS chủ xe cơ giới, QĐ 28 Bộ Tài chính ngày 24/4/2007 ban hành Quy tắc biểu phí bảo hiểm cháy nổ bắt buộc. Bộ Tài chính dang tiến hành sửa đổi bổ sung NĐ 115 về chế độ BHBB TNDS chủ xe cơ giới, NĐ 118 về xử phạt hành chính trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Các văn bản là cơ sở để tiến tới sửa đổi Luật kinh doanh bảo hiểm vào năm 2009. NĐ 45, 46, TT 155, TT 156 đã tạo ra được rào cản kỹ thuật để sang lọc các DNBH muốn được thành lập và hoạt đọng như tăng vốn pháp dịnh từ 70 tỉ lên 300 tỉ đối với doanh nghiệp phi nhân thọ, 140 tỉ đồng lên 600 tỉ đồng đối với nhân thọ, tổ chức nước ngoài đứng ra thành lập DNBH phải có trên 10 năm hoạt động kinh doanh bảo hiểm và tổng tài sản trển 2 (hai) tỉ USD, quy định về năng lực quản lý và chuyên môn cho các chức danh chủ tịch và ủy viên Hội đồng quản trị, Giám đốc và Phó giám đốc chi nhành và trước các phòng ban, điều kiện mở thêm chi nhánh và phòng kinh doanh. Tiến tới đén năm 2010 sửa đổi Luật kinh doanh bảo hiểm phù hợp với tiêu chuẩn, chuẩn mực quản lý và tổ chức hoạt động kinh doanh bao hiểm và bảo vệ quyền lợi ích khách hàng ngày một tốt hơn.
Hình thành bộ máy quản lý nhà nước về hoạt động kinh doanh bảo hiểm đủ mạnh để thực hiện việc hậu kiểm đạt kết quả cao.
Trước hết cần sắp xếp lại bộ máy tổ chức Vụ Quản lý Bảo hiểm – Bộ Tài chính, nâng cấp thành Cục Quản lý Bảo hiểm. Trong đó, có bộ phận Thanh tra Bảo hiểm có quyền ra quyết định xử phạt những vi phạm trong hoạt động KDBH, bộ phận nghiên cứu định hướng phát triển thị trường bảo hiểm trong từng giai đoạn làm cơ sở cấp phép thành lập DNBH và ban hành các văn bản pháp quy.
Thứ hai là cần thành lập Cơ quan giám sát các dịch vụ tài chính trực thuộc chính phủ. Cơ quan này có chức năng tiếp nhận báo cáo hoạt động, kiểm tra xử phạt các hoạt động KDBH, chứng khoán, cho thuê tài chính, đầu tư tài chính, ngân hàng, tín dụng. Việc kiểm soát liên ngành sẽ không cho phép tạo kẽ hở dấu rủi ro khiếm khuyết của ngành này đến khi phát hiện ra sẽ kéo theo sự ảnh hưởng của ngành khác như ngân hàng cho vay quá nhiều vào chứng khoán và bất động sản làm tăng trưởng bong bóng của 2 ngành này đến khi bất động sản đóng băng, chứng khoán giảm giá ảnh hưởng đến sự suy sụp của ngân hàng, bảo hiểm và các dịch vụ tài chính khác.
Cần có sự biến đổi về chất của các DNBH nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh, khả năng hội nhập quốc tế sâu rộng, phù hợp với mô hình phát triển DNBH theo chuẩn mực quốc tế.
Trước hết, phải tập trung vào công nghệ thông tin, đáp ứng nhu cầu quản lý BH từ khâu khai thác, theo dõi hợp đồng, khách hàng, tiếp nhận thông tin từ khách hàng, xử lý sự cố thiên tai, tai nạn, giám định bồi thường, tính phí, đánh giá rủi ro. Các DNBH trước đây đã đầu tư nhiều vào công nghệ thông tin nhưng thiếu đồng bộ nên ít nhiều đã có thất bại hoặc hiệu quả ứng dụng điều hành không cao. Con đường ngắn nhất là từng DNBHVN lựa chọn đối tác chiến lược để tiếp thu kinh nghiệm, năng lực quản lý điều hành DN cũng như tiếp thu những phần mềm quản lý điều hành của họ mang tính hệ thống và thực tiễn ứng dụng hiệu quả cao.
Thứ hai là tập trung cho công tác đào tạo, phát triển nguồn nhân lực mang tính hệ thống, bài bản với những nội dung, chương trình đào tạo chuẩn mực quốc tế thay cho lối đào tạo truyền bá kinh nghiệm, kiến thức của người đi trước dạy bảo người đi sau. Đối với các DNBH Phi nhân thọ cần từng bước tăng dần tỉ trọng khai thác BH qua khâu trung gian là môi giới và đại lý BH, tinh giảm biên chế đội ngũ cán bộ khai thác trước đây để đào tạo họ thành những cán bộ quản lý BH giỏi, nghiên cứu thị trường, phát triển sản phẩm, mở rộng dịch vụ chăm sóc khách hàng ngày một tốt hơn. Ngoài ra, các DNBH cả nhân thọ và phi nhân thọ cần có những chương trình tuyển dụng, đào tạo, sử dụng chế độ đãi ngộ thích hợp cho những đại lý BH từ lúc mới tuyển dụng đến bước thăng tiến sau này sao cho có chất lượng và đảm bảo thu nhập ngày càng cao, tạo ra đội ngũ BH chuyên nghiệp, chuyên tâm với nghề, cống hiến cho DN.
Thứ ba là cần tạo ra thế mạnh hơn hẳn của DNBHVN về địa lý, văn hóa, pháp luật để cạnh tranh với các DNBH nước ngoài không hoạt động tại VN.
Thế mạnh địa lý tạo cơ hội cho DNBH tiếp cận trực tiếp với khách hàng, đầu tư mở rộng các dịch vụ gia tăng cho khách hàng (như khám bệnh điều trị tại bệnh viện bác sĩ nổi tiếng VN, bảo dưỡng xe, chữa xe không thuộc tai nạn bảo hiểm được giảm giá…) và giải quyết việc giám định cũng như bồi thường nhanh nhất, trực tiếp tới khách hàng.
Thế mạnh về văn hóa tạo điều kiện cho các DNBH hiểu biết được mục đích, nhu cầu, mong muốn của khách hàng tiềm năng trước khi lựa chọn sản phẩm BH và DNBH để đáp ứng như: phương pháp tiếp cận khách hàng, cách thức tuyên truyền vận động khách hàng mua BH, nhu cầu của khách hàng về sản phẩm BH để có thể mở rộng phạm vi BH hoặc đưa ra sản phẩm BH mới, những khó khăn vướng mắc mà khách hàng cần DNBH cùng tháo gỡ…
Thế mạnh về pháp luật là điều quan trọng nhất vì người được BH sẽ được bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp trước pháp luật VN. Hồ sơ và thủ tục đòi bồi thường, biên bản giám định, chứng từ chứng minh thiệt hại dễ dàng thực hiện tại VN và được luật pháp VN công nhận. Nếu có gì không thỏa thuận được khách hàng có thể kiện DNBH ra Tòa án VN. Đây là lợi thế hơn hẳn. Nếu một số khách hàng tham gia BH với DNBH đang hoạt động tại nước ngoài có thể họ yêu cầu chứng thu giám định tổn thất tại một công ty giám định có uy tín quốc tế không công nhận những kết quả của cơ sở y tế, cơ quan công an, chính quyền địa phương như các DNBHVN thường làm. Mặt khác, bộ hồ sơ bồi thường nếu có một loại giấy tờ nào đó do sơ suất về ngày tháng năm, số lượng, đơn giá, trị giá, người lập không phù hợp với giấy tờ còn lại có thể bị từ chối bồi thường mà không được làm lại. Giải quyết tranh chấp với DNBH đang hoạt động ở nước ngoài là rất khó khăn về ngôn ngữ, luật sư, nguồn luật và Tòa đứng ra xét xử nên người được BH sẽ khó có thể theo đuổi vụ kiện hoặc thắng kiện.
Các DNBHVN cần có sự hợp tác hơn nữa
Nói đến thị trường tất yếu phải có sự cạnh tranh. Cạnh tranh không phải là để chia rẽ, phân hóa các DNBH mà trong cạnh tranh sẽ tạo tiền đề để các DNBH tiến tới hợp tác song phương, đa phương thậm chí tiến tới việc mua bán, hợp nhất, sáp nhập DNBH để tạo nên một sức mạnh cạnh tranh tốt hơn. Khi vốn pháp định tăng (300 tỉ với DNBH phi nhân thọ, 600 tỉ với DNBH nhân thọ) vốn chủ sở hữu tăng (các DNBH tăng vốn) và số lượng DNBH trên thị trường VN ngày càng đông, với khả năng giữ lại lớn (10% vốn chủ sở hữu) tất yếu các DNBH phải tái BH lẫn nhau, tiến tới không phải tái bảo hiểm ra nước ngoài. Vì vậy, sẽ có sự thống nhất về sản phẩm BH (Quy tắc điều khoản, Biểu phí) và sẽ có sự hợp tác với nhau trong tái bảo hiểm và đồng bảo hiểm. Ngoài ra, các DNBH càng cần hợp tác với nhau trong việc xây dựng dữ liệu quản lý BH đánh giá rủi ro, phân tích rủi ro, cung cấp thông tin về bồi thường, nguyên nhân tổn thất, phòng chống trục lợi BH.
Nâng cao vai trò của Hiệp hội Bảo hiểm VN và mạnh dạn giao dần cho Hiệp hội thực hiện các dịch vụ hành chính công
Sự hợp tác giữa các DNBH, xây dựng ngôi nhà chung mang tiếng nói chung, xây dựng chế độ tự quản của các DNBH tất yếu được xoay quanh trục là vai trò của HHBHVN. Thời gian qua, HHBH đã phát huy được vai trò trong tuyên truyền về BH; tư vấn, thẩm định đóng góp ý kiến xây dựng văn bản pháp quy; tổng hợp cung cấp thông tin đánh giá tình hình thị trường BHVN; tổ chức đào tạo tập huấn và hội thảo, xây dựng chế độ hợp tác và tự quản; mở rộng mối quan hệ hợp tác với các tổ chức kinh tế xã hội trong và ngoài nước. Song, thực tế, không ít DNBH chưa tôn trọng Hiệp hội. Các Quy tắc ứng xử, Quy chế, Thỏa thuận hợp tác luôn bị các DNBH vi phạm mà chưa có chế tài xử phạt. Thực chất, hoạt động của HH vẫn sống nhờ 100% vào kinh phí đóng từ DNBH. Để HH có tiếng nói khách quan, có thể phát huy vai trò của mình thì cần từng bước tăng thu nhập của HH, giảm dần sự đóng góp kinh phí từ các DNBH. Đó chính là giao cho HHBH thực hiện các công việc hành chính công. Trước mắt, có thể giao cho HHBH là nơi duy nhất tổ chức kiểm tra cấp chứng chỉ đại lý BH Nhân thọ, Phi nhân thọ. Làm được việc này sẽ nâng cao rõ rệt chất lượng đào tạo, tuyển dụng đại lý, đồng thời ngăn chặn được việc tạo ra đội ngũ đại lý BH khống, chi hoa hồng khống cho đại lý khi DNBH vừa là người đào tạo cấp chứng chỉ vừa sử dụng và chi hoa hồng đại lý. Sau đó, HHBH sẽ là người được quyền thu các dịch vụ tư vấn phản biện đóng góp ý kiến văn bản pháp quy, thu từ dịch vụ duy trì hợp đồng và cung cấp thông tin từ phần mềm quản lý dữ liệu quản lý BH thống nhất, thu từ dịch vụ đào tạo.
V- Những thành tựu của năm 2007 chứng tỏ thị trường BHVN tiếp tục phát triển trong năm đầu tiên gia nhập WTO
Năng lực tài chính:
Đơn vị: tỉ đồng
Doanh nghiệp | Vốn điều lệ | Vốn chủ sở hữu | Tổng tài sản |
Phi nhân thọ 13 DNVN 9 DN nước ngoài | 7.376 6.185 1.191 | 8.680 7.670 1.016 | 17.369 15.796 1.573 |
Nhân thọ 1 DNVN 8 DN nước ngoài | 5.940 1.500 4.440 | 5.624 1.502 4.122 | 39.417 13.990 24.426 |
Tái BH (1) | 672 | 614 | 1.215 |
Môi giới BH (8) | 424 | – | – |
Tổng cộng so với 2006 | 14.030,4 | 14.918 212,5% | 58.001 146,1% |
Doanh thu:
Đơn vị: tỉ đồng
Lĩnh vực | 2006 | 2007 | % |
Phi nhân thọ Nhân thọ | 6.381 8.481 | 8.359 9.458 | 31% 12% |
Dự phòng nghiệp vụ:
Đơn vị: tỉ đồng
Lĩnh vực | 2006 | 2007 | Tăng trưởng |
Phi nhân thọ DNVN DN nước ngoài | 3.489 3.317 171 | 4.333 4.101 231 | 24,2% |
Nhân thọ DNVN DN nước ngoài | 24.219 10.793 13.426 | 31.152 12.215 18.936 | 28,6% |
Tổng cộng | 27.708 | 35.485 | 28% |
Đầu tư:
Đơn vị: tỉ đồng
Lĩnh vực | 2006 | 2007 | Tăng trưởng |
Phi nhân thọ DNVN DN nước ngoài | 4.740 4.134 606 | 11.495 10.228 1.266 | 42,5% |
Nhân thọ DNVN DN nước ngoài | 25.323 10.888 14.435 | 32.568 12.842 19.726 | 28,6% |
Tổng cộng | 30.063 | 44.063 | 46,5% |
Những kết quả trên đây cho thấy thị trường BHVN đã có những bước tăng trưởng rõ rệt sau một năm gia nhập WTO. Cơ hội đem lại khi VN gia nhập WTO, kinh tế xã hội phát triển là vô cùng thuận lợi cho ngành BH phát triển. Song, hội nhập quốc tế càng sâu rộng bao nhiêu thì ảnh hưởng của nền tài chính, kinh tế toàn cầu tới VN càng lớn bấy nhiêu. Cuối năm 2007, khủng hoảng tín dụng ở Mỹ, giá xăng dầu, sắt thép, lúa gạo tăng đột biến đã làm ảnh hưởng tới VN. Cùng với yếu kém trong điều hành kinh tế làm cho lạm phát vượt quá 2 con số. Thị trường vàng, đôla, chứng khoán, bất động sản, lúa gạo, xi măng có những biến động bất thường trong đầu năm 2008 đã ảnh hưởng đến nền kinh tế xã hội nói chung và ngành bảo hiểm nói riêng. Những số liệu thị trường bảo hiểm 3 tháng đầu năm 2008, doanh thu bảo hiểm phi nhân thọ đạt 8.360 tỉ đồng (tăng 31%), doanh thu bảo hiểm nhân thọ đạt 9.486 tỉ đồng (tăng 11.84%) đã chứng minh ngành bảo hiểm vẫn tiếp tục tăng trưởng trước những biến động trên.
SOURCE: TẠP CHÍ PHÁT TRIỂN KINH TẾ SỐ 213, THÁNG 7 NĂM 2008 - PHÙNG KHẮC LỘC – Tổng thư ký Hiệp hội Bảo hiểm VN
(MKLAW FIRM: Bài viết được đăng tải nhằm mục đích giáo dục, phổ biến, tuyên truyền pháp luật và chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước không nhằm mục đích thương mại. Thông tin nêu trên chỉ có giá trị tham khảo vì vậy Quý khách khi đọc thông tin này cần tham khảo ý kiến luật sư, chuyên gia tư vấn trước khi áp dụng vào thực tế.)
3. Cam kết dịch vụ khi gia nhập WTO: Bình luận của người trong cuộc
LỜI NÓI ĐẦU
Tuy nhiên, như ở nhiều thành viên mới gia nhập WTO khác, quá trình thực thi cam kết ở Việt Nam cũng đã gặp một số vướng mắc gây khó khăn không nhỏ cho doanh nghiệp và các cơ quan quản lý nhà nước hữu quan. Những vướng mắc này chủ yếu phát sinh trong lĩnh vực dịch vụ, một lĩnh vực còn khá mới và hết sức phức tạp, không chỉ với nước ta mà còn với nhiều nước khác trên thế giới.
Sự phức tạp trong thực thi các cam kết dịch vụ bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân, trong đó có những nguyên nhân không dễ nhận biết nếu dịch vụ hoặc đàm phán dịch vụ không phải là lĩnh vực chuyên môn của người có liên quan. Trong những nguyên nhân này, có nguyên nhân thuộc về cách định nghĩa và phân loại dịch vụ, có nguyên nhân thuộc về cách thức cam kết mở cửa thị trường dịch vụ, nhưng cũng có những nguyên nhân bắt nguồn từ chiến thuật đàm phán của các nhà đàm phán, tức là không mấy liên quan tới bản chất và nội dung, khiến quá trình thực thi vốn đã phức tạp càng trở nên phức tạp và rắc rối hơn.
Sự phức tạp trong thực thi các cam kết dịch vụ đã và đang gây khó khăn cho các doanh nghiệp và cơ quan quản lý, cấp phép đầu tư tại các địa phương. Nhiều doanh nghiệp, do chưa hiểu rõ nội dung của Biểu cam kết dịch vụ, đã bỏ công điều tra, chắp nối, xây dựng nghiên cứu tiền khả thi và nộp đơn xin thành lập các dự án đầu tư trong những ngành hoặc phân ngành dịch vụ mà Biểu cam kết dịch vụ không cho phép hoặc chỉ cho phép sau một thời gian chuyển đổi, dẫn đến việc hồ sơ xin phép bị cơ quan cấp phép từ chối và doanh nghiệp phải gánh chịu những mất mát to lớn về thời gian và chi phí. Ở chiều ngược lại, cũng do chưa nắm rõ nội dung của Biểu cam kết nên rải rác đã xuất hiện tình trạng cơ quan quản lý nhà nước từ chối các quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư khiến nhà đầu tư phải khiếu nại, ảnh hưởng đến uy tín không chỉ của cơ quan quản lý nhà nước có liên quan mà còn của cả Chính phủ Việt Nam trong quá trình thực thi cam kết gia nhập WTO.
Luật sư tư vấn luật Đất đai qua điện thoại gọi số: 1900.6162
Kể từ khi gia nhập WTO, Bộ Thương mại (nay là Bộ Công Thương), Bộ Kế hoạch Đầu tư và nhiều Bộ, ngành hữu quan đã nỗ lực phối hợp với các địa phương tổ chức nhiều đợt tuyên truyền, giới thiệu các nội dung cam kết trong lĩnh vực dịch vụ của Việt Nam khi gia nhập WTO. Nhiều tài liệu hỗ trợ, giải thích cam kết đã được xuất bản nhưng dường như vẫn chưa đáp ứng được sự trông đợi của các doanh nghiệp bởi mức độ giải thích chưa được sâu và chưa nêu được cặn kẽ ý nghĩa và bản chất của các cam kết mà Việt Nam đã đưa ra trong khi đây lại là điều tối quan trọng đối với doanh nghiệp và cơ quan quản lý, cấp phép đầu tư tại các địa phương.
Xuất phát từ thực tế đó, Bộ Công Thương, với sự trợ giúp của Dự án Hỗ trợ Thương mại Đa biên giai đoạn 3 (MUTRAP III) do Liên minh Châu Âu tài trợ, đã quyết định biên soạn và xuất bản cuốn sách “Cam kết về dịch vụ khi gia nhập WTO: Bình luận của người trong cuộc”. Như tên gọi đã chỉ ra, đây là cuốn sách do các chuyên viên đàm phán của Bộ Công Thương và một số Bộ, ngành liên quan – những người đã trực tiếp tham gia đàm phán gia nhập WTO và xây dựng Biểu cam kết dịch vụ – biên soạn. Điểm đặc biệt của cuốn sách là bên cạnh các giải thích chuyên môn đầy đủ và sâu nhất từ trước tới nay, những người viết đã cố gắng đưa ra một số tình huống giả định để truyền tải rõ hơn nội dung của các cam kết tới các doanh nghiệp và các cơ quan quản lý hữu quan, hy vọng từ đó sẽ góp phần xây dựng được cách hiểu và thực thi nhất quán cam kết trên thực tế.
Mặc dù có sự tham gia của người trong cuộc và tất cả đều đã rất cố gắng để bảo đảm diễn giải chính xác nội dung của các cam kết nhưng cuốn sách này, trong mọi trường hợp, không thể coi là giải thích chính thức của Bộ Công Thương hay của bất kỳ cơ quan quản lý nhà nước nào khác về nội dung của các cam kết trong lĩnh vực dịch vụ. Như đã trình bày, cuốn sách chỉ đưa ra bình luận và giải thích của những người đã trực tiếp tham gia đàm phán, với hy vọng góp thêm một tiếng nói cho quá trình hướng dẫn thực thi cam kết chứ không thay thế cho các giải thích chính thức của các cơ quan Nhà nước.
Bộ Công Thương mong cuốn sách sẽ trở thành tài liệu tham khảo hữu ích cho các doanh nghiệp, các nhà quản lý và tất cả bạn đọc muốn tìm hiểu thêm về cam kết trong lĩnh vực dịch vụ của Việt Nam khi gia nhập WTO. Để những lần xuất bản sau được hoàn thiện hơn, Bộ Công Thương và những người tham gia biên soạn cuốn sách mong nhận được ý kiến góp ý, phê bình của các doanh nghiệp, các nhà quản lý, các nhà nghiên cứu và toàn thể bạn đọc.
Bộ Công Thương xin chân thành cảm ơn các chuyên gia của Bộ Kế hoạch Đầu tư, Bộ Tài chính, Bộ Giao thông Vận tải và các Bộ, ngành liên quan khác về những đóng góp chuyên môn trong việc biên soạn cuốn sách này. Bộ Công Thương cũng xin cảm ơn Dự án Hỗ trợ Thương mại Đa biên giai đoạn 3 (MUTRAP III) đã hỗ trợ kinh phí cho việc in ấn và xuất bản cuốn sách.
THỨ TRƯỞNG BỘ CÔNG THƯƠNG
TRƯỞNG ĐOÀN ĐÀM PHÁN CHÍNH PHỦ
NGUYỄN CẨM TÚ
GIẢI THÍCH CHUNG VỀ BIỂU CAM KẾT DỊCH VỤ
I. Kết cấu của Biểu cam kết dịch vụ
Đàm phán mở cửa thị trường dịch vụ trong khuôn khổ WTO được tiến hành theo các nguyên tắc và quy định của Hiệp định chung về thương mại dịch vụ (GATS). Kết quả đàm phán được các bên có liên quan ghi lại vào một biểu theo mẫu quy định của WTO, được gọi là Biểu cam kết cụ thể về thương mại dịch vụ (trong tài liệu này, xin gọi tắt là Biểu cam kết dịch vụ hoặc Biểu cam kết).
Biểu cam kết dịch vụ gồm 3 phần: phần cam kết chung, phần cam kết cụ thể và danh mục các biện pháp miễn trừ đối xử tối huệ quốc (miễn trừ MFN).
Phần cam kết chung bao gồm các cam kết áp dụng cho tất cả các ngành dịch vụ xuất hiện trong Biểu cam kết dịch vụ. Phần này chủ yếu đề cập tới các chính sách kinh tế – thương mại tổng quát như các quy định về chế độ đầu tư, hình thức thành lập doanh nghiệp, chính sách đất đai, các biện pháp về thuế, trợ cấp v.v… Do đây là các biện pháp ảnh hưởng đồng loạt tới tất cả các ngành nên WTO gọi là "cam kết nền" (horizontal commitments). Cụm từ này tương đối xa lạ với người Việt nên khi chuyển sang tiếng Việt, các cơ quan đã thống nhất sử dụng cụm từ "cam kết chung" (general commitments) cho dễ hiểu hơn.
Một biện pháp, nếu đã được bảo lưu trong phần cam kết chung thì về nguyên tắc không cần phải xuất hiện lại trong phần cam kết cụ thể. Tuy nhiên, trong thực tế, thỉnh thoảng ta vẫn thấy một số biện pháp xuất hiện cả trong phần cam kết chung và phần cam kết cụ thể (thí dụ như tỷ lệ vốn tối đa mà các nhà đầu tư nước ngoài được phép đầu tư vào các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam). Sở dĩ có hiện tượng đó là do các nhà đàm phán muốn khẳng định thêm "sức nặng" của biện pháp bảo lưu mà thôi, không liên quan đến kỹ thuật cam kết dịch vụ của WTO.
Phần cam kết cụ thể bao gồm các cam kết áp dụng cho từng dịch vụ đưa vào Biểu cam kết dịch vụ. Với mỗi dịch vụ được liệt kê, đều có cam kết cụ thể đi kèm, chẳng hạn như các cam kết về dịch vụ viễn thông, dịch vụ bảo hiểm, dịch vụ ngân hàng hoặc dịch vụ vận tải. Nội dung cam kết thể hiện mức độ mở cửa thị trường đối với từng dịch vụ cho các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài.
Danh mục các biện pháp miễn trừ đối xử tối huệ quốc liệt kê các biện pháp tuy vi phạm nguyên tắc MFN của WTO nhưng được các thành viên WTO, thông qua
đàm phán, cho phép duy trì. Nguyên tắc MFN là nguyên tắc quan trọng bậc nhất của WTO, theo đó, các thành viên không được phân biệt đối xử giữa dịch vụ và nhà cung cấp dịch vụ của thành viên này với dịch vụ và nhà cung cấp dịch vụ của thành viên khác. Tuy nhiên, GATS cho phép một thành viên được vi phạm nguyên tắc MFN nếu thành viên này đưa biện pháp vi phạm vào danh mục các biện pháp miễn trừ đối xử tối huệ quốc và được các thành viên khác chấp thuận.
Tên đầy đủ của danh mục là Danh mục các biện pháp miễn trừ đối xử tối huệ quốc. Tuy nhiên, các nhà đàm phán có thể dùng nhiều từ khác nhau để chỉ danh mục này, thí dụ "danh mục loại trừ MFN", "danh mục miễn trừ MFN" hay đơn giản hơn nữa là "ngoại lệ MFN".
Một điều cần lưu ý là ngoài Biểu cam kết dịch vụ, Việt Nam còn đưa ra một số cam kết có liên quan đến mở cửa thị trường dịch vụ tại Báo cáo của Ban công tác về việc Việt Nam gia nhập WTO (Các chính sách ảnh hưởng đến thương mại dịch vụ, đoạn 472-508). Vì vậy, để có được bức tranh đầy đủ về cam kết trong lĩnh vực dịch vụ của Việt Nam, ngoài Biểu cam kết, cần tham khảo thêm cả Báo cáo của Ban công tác về việc Việt Nam gia nhập WTO
II. Phương thức trình bày Biểu cam kết dịch vụ
Biểu cam kết dịch vụ gồm 4 cột: i) cột mô tả ngành/phân ngành; ii) cột liệt kê các biện pháp về tiếp cận thị trường; iii) cột liệt kê các biện pháp về đối xử quốc gia và iv) cột liệt kê các cam kết bổ sung.
Cột mô tả ngành/phân ngành thể hiện tên và mã số của dịch vụ cụ thể được đưa vào cam kết.
Theo phân loại của WTO (tài liệu MTN.GNS/W/120), lĩnh vực dịch vụ được chia thành 11 ngành chính (sector), mỗi ngành chính lại phân tiếp thành nhiều ngành nhỏ hơn được gọi là phân ngành (sub-sector), tổng cộng bao gồm 155 phân ngành. Do tài liệu của W/120 của WTO chỉ liệt kê tên ngành/phân ngành, không giải thích nội dung cụ thể nên để thống nhất cách hiểu cho từng ngành/phân ngành, người ta phải viện dẫn đến Hệ thống phân loại sản phẩm trung tâm tạm thời (Provisional Central Product Classification – PCPC) của Liên hợp quốc. Vì vậy, mỗi ngành/phân ngành dịch vụ đưa vào Biểu cam kết đều có một mã số PCPC mà trong đàm phán, để thuận tiện, người ta thường ghi ngắn gọn là CPC. Việc ghi ngắn gọn như vậy đôi khi đã gây lầm lẫn giữa 2 tài liệu PCPC (được sử dụng để đàm phán) và CPC (được sử dụng cho mục đích thống kê), đều do Liên hợp quốc ban hành.
Vì vậy, trong khuôn khổ đàm phán dịch vụ tại WTO, ký hiệu CPC phải được hiểu
đầy đủ là PCPC.
Giả sử một thành viên muốn đưa ra bản chào hoặc cam kết đối với ngành bảo hiểm nhân thọ. Trong tài liệu W/120 của WTO, dịch vụ này thuộc phần có tiêu đề "dịch vụ bảo hiểm", thuộc ngành "dịch vụ tài chính". Thông qua tham chiếu đến PCPC, dịch vụ bảo hiểm nhân thọ có mã số PCPC tương ứng là 8129. Vì vậy, trong bản chào hoặc biểu cam kết của mình, thành viên có liên quan sẽ ghi tại cột mô tả ngành dòng chữ "dịch vụ bảo hiểm nhân thọ (CPC 8129)".
Cột hạn chế tiếp cận thị trường liệt kê các biện pháp hạn chế mà thành viên đưa ra cam kết muốn áp dụng cho các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài. GATS quy định
6 loại biện pháp hạn chế bao gồm: 1) hạn chế về số lượng nhà cung cấp dịch vụ; 2) hạn chế về tổng giá trị của các giao dịch hoặc tài sản; 3) hạn chế về tổng số hoạt động dịch vụ hoặc số lượng dịch vụ cung cấp; 4) hạn chế về số lượng lao động; 5)
hạn chế hình thức thành lập doanh nghiệp; và 6) hạn chế vốn góp của nước ngoài. Biểu cam kết nào liệt kê càng nhiều biện pháp hạn chế thì mức độ mở cửa thị trường cho các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài càng chặt chẽ.
Cột hạn chế đối xử quốc gia liệt kê các biện pháp mà thành viên đưa ra cam kết muốn duy trì để phân biệt đối xử giữa nhà cung cấp dịch vụ trong nước với nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài. Biểu cam kết nào liệt kê càng nhiều biện pháp trong cột này thì sự phân biệt đối xử giữa các nhà cung cấp dịch vụ trong nước với các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài càng lớn.
Cột cam kết bổ sung liệt kê các biện pháp ảnh hưởng đến hoạt động cung cấp và tiêu dùng dịch vụ nhưng không thuộc về hạn chế tiếp cận thị trường hay hạn chế về đối xử quốc gia. Thí dụ, cột này có thể đưa ra các quy định liên quan đến trình độ, tiêu chuẩn kỹ thuật, các yêu cầu về thủ tục cấp phép v.v… Nhìn chung, dù đã có nhiều nỗ lực trong việc thống nhất mục đích sử dụng của cột này, các thành viên WTO vẫn sử dụng cột này khá tùy tiện.
III. Phương pháp tiếp cận “chọn – bỏ” và “chọn – cho”
Phương pháp tiếp cận “chọn – bỏ” (negative) là cam kết theo dạng "được làm tất cả những gì không bị hạn chế". Phương pháp tiếp cận “chọn – cho” (positive) là cam kết theo dạng "chỉ được làm những gì được phép làm".
WTO sử dụng phương pháp chọn – cho khi xác định phạm vi cam kết, tức là các ngành/phân ngành dịch vụ được đưa vào Biểu cam kết dịch vụ. Theo đó, bên đưa
ra cam kết chỉ cam kết mở cửa thị trường cho các dịch vụ xuất hiện trong Biểu. Với những dịch vụ không xuất hiện trong Biểu, bên cam kết không có nghĩa vụ nào cả. Ví dụ, trong trường hợp của Việt Nam, những dịch vụ như quản lý bất động sản, in ấn, xuất bản… không xuất hiện trong Biểu cam kết dịch vụ. Điều đó có nghĩa là Việt Nam không cam kết gì cho những ngành này, ngoại trừ nghĩa vụ áp dụng các quy tắc chung của GATS.
Phương pháp tiếp cận chọn – cho này đã gây ra nhiều phiền toái cho việc giải thích và thực thi cam kết. Do các ngành/phân ngành không đưa vào Biểu cam kết của Việt Nam phần lớn đều là những ngành nhạy cảm (như phát thanh, truyền hình, in ấn, xuất bản, phân phối xăng dầu, phân phối dược phẩm) nên một số người đã hiểu nhầm rằng "không xuất hiện trong Biểu cam kết có nghĩa là bị cấm và vì vậy, không được cấp phép đầu tư". Thực ra thì không phải vậy. Việc một dịch vụ nào đó không xuất hiện trong Biểu cam kết chỉ mang một ý nghĩa duy nhất là Việt Nam không đưa ra cam kết gì cho dịch vụ đó mà thôi. Do không đưa ra cam kết nên Việt Nam sẽ không phải chịu bất kỳ ràng buộc nào đối với dịch vụ này, ngoài các nguyên tắc chung của GATS (như đối xử tối huệ quốc, minh bạch hóa v..v). Tóm lại, với các dịch vụ không xuất hiện trong Biểu cam kết, Việt Nam được toàn quyền cho hay không cho nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài tiếp cận thị trường nước mình và trong trường hợp cho, được toàn quyền đưa ra các điều kiện cho việc cấp phép, miễn là tuân thủ các nguyên tắc cơ bản của GATS.
Giữa khái niệm "toàn quyền" và "tuân thủ các nguyên tắc cơ bản của GATS" có một ranh giới rất mờ mà các nhà quản lý phải chú ý đặc biệt. Lấy dịch vụ xuất bản làm ví dụ. Do không xuất hiện trong Biểu cam kết dịch vụ nên Việt Nam có "toàn quyền" trong việc đóng cửa thị trường này đối với các nhà xuất bản nước ngoài. Tuy nhiên, nếu Việt Nam đồng ý cấp phép cho một nhà xuất bản nước ngoài nào đó thì ngay lập tức, việc "tuân thủ các nguyên tắc cơ bản của GATS" sẽ được áp dụng. Do một trong những nguyên tắc cơ bản của GATS là MFN (không phân biệt đối xử giữa các thành viên) nên Việt Nam sẽ phải cấp phép cho cả các nhà xuất bản nước ngoài khác nếu được yêu cầu.
Để xử lý nhất quán các vấn đề mà phương pháp tiếp cận chọn – cho tạo ra, cách tốt nhất là rà soát lại tất cả các ngành/phân ngành không xuất hiện trong Biểu cam kết dịch vụ và phân chúng vào các danh mục như (i) không cho phép đầu tư nước ngoài; (ii) cho phép có điều kiện và (iii) cho phép không điều kiện. Ví dụ, những ngành nhạy cảm cao như phát thanh, truyền hình, xuất bản… có thể đưa vào danh mục "không cho phép đầu tư nước ngoài"; những ngành nhạy cảm vừa phải như in ấn, phân phối dược phẩm… có thể đưa vào danh mục "cho phép có điều kiện" (ví dụ như chỉ cho phép hình thức liên doanh với tỷ lệ vốn góp của nước ngoài không
vượt quá 49%); những ngành không nhạy cảm lắm như quản lý bất động sản, kinh doanh bất động sản.. có thể đưa vào danh mục "cho phép không điều kiện" để các tỉnh, thành có thể cấp phép theo nhu cầu. Việc có được các danh mục rõ ràng như vậy sẽ tạo thuận lợi rất nhiều cho các cơ quan quản lý, cấp phép đầu tư ở các địa phương và các doanh nghiệp.
Phương pháp chọn – bỏ được sử dụng khi đưa ra cam kết đối với các dịch vụ được đưa vào Biểu. Theo đó, bên cam kết sẽ liệt kê toàn bộ các biện pháp hạn chế mà bên đó muốn áp dụng cho dịch vụ có liên quan. Ngoài các biện pháp này, sẽ không áp dụng bất kỳ biện pháp hạn chế nào khác trong số 6 biện pháp mà GATS liệt kê.
Nguyên tắc là như vậy nhưng một vài thành viên WTO, khi đi vào từng ngành cụ thể, thỉnh thoảng vẫn áp dụng phương pháp chọn – cho. Vì vậy, hai cụm từ "không hạn chế, ngoại trừ" và "chưa cam kết, ngoại trừ" thường được đưa thêm vào Biểu cam kết để khẳng định phương pháp tiếp cận tại một phương thức cung cấp dịch vụ nào đó là chọn – bỏ hay chọn – cho.
IV. Các phương thức cung cấp dịch vụ
Để tiện cho đàm phán, GATS thống nhất quy định 4 phương thức cung cấp dịch vụ, bao gồm:
• Phương thức 1 (Mode 1): Cung cấp qua biên giới
• Phương thức 2 (Mode 2): Tiêu dùng ngoài lãnh thổ
• Phương thức 3 (Mode 3): Hiện diện thương mại, và
• Phương thức 4 (Mode 4): Hiện diện thể nhân.
Phương thức cung cấp qua biên giới (gọi tắt là Phương thức 1 hay Mode 1) là phương thức mà theo đó, dịch vụ được cung cấp từ lãnh thổ của một thành viên này sang lãnh thổ của một thành viên khác, ví dụ như giáo dục từ xa qua mạng Internet. Theo phương thức này, cả người cung cấp dịch vụ lẫn người tiêu dùng dịch vụ đều không di chuyển ra khỏi lãnh thổ nước mình. Dịch vụ được cung cấp và tiêu thụ "qua biên giới".
Phương thức tiêu dùng ngoài lãnh thổ (gọi tắt là Phương thức 2 hay Mode 2) là phương thức mà theo đó, người tiêu dùng của một thành viên di chuyển sang lãnh thổ của một thành viên khác để tiêu dùng dịch vụ, ví dụ như khách du lịch nước ngoài sang Việt Nam tham quan và mua sắm.
Phương thức hiện diện thương mại (gọi tắt là Phương thức 3 hay Mode 3) là phương thức mà theo đó, nhà cung cấp dịch vụ của một thành viên thiết lập các hình thức hiện diện như công ty 100% vốn nước ngoài, công ty liên doanh, chi nhánh v.v…trên lãnh thổ của một thành viên khác để cung cấp dịch vụ, ví dụ như Ngân hàng HSBC thành lập ngân hàng con 100% vốn HSBC tại Việt Nam để kinh doanh.
Phương thức hiện diện thể nhân (gọi tắt là Phương thức 4 hay Mode 4) là phương thức theo đó thể nhân cung cấp dịch vụ của một thành viên di chuyển sang lãnh thổ của một thành viên khác để cung cấp dịch vụ, ví dụ như các nhà quản lý cấp cao, các nghệ sĩ nước ngoài sang Việt Nam biểu diễn nghệ thuật v..v.
Trong 2 cột Tiếp cận thị trường và Đối xử quốc gia của Biểu cam kết dịch vụ, ta thấy xuất hiện lần lượt các chữ số 1, 2, 3, 4 trước các lời văn cam kết. Đó chính là cách viết tắt của các phương thức 1, 2, 3 và 4 như đã trình bày trên. Vì vậy, khi thấy đề "(1) Không hạn chế" thì phải hiểu đầy đủ là "Phương thức 1: Không hạn chế", tức là không áp dụng bất kỳ hạn chế nào trong số các hạn chế mà GATS đã liệt kê đối với phương thức cung ứng dịch vụ qua biên giới.
V. Mức độ cam kết
Biểu cam kết dịch vụ là tài liệu mang tính ràng buộc pháp lý nên việc có hay không có các hạn chế về tiếp cận thị trường hay đối xử quốc gia phải được thể hiện hết sức chính xác và thống nhất. Phụ thuộc vào mức độ hạn chế mà mỗi thành viên có thể đưa ra, thường có 3 trường hợp sau:
1. Mở cửa toàn bộ (cam kết toàn bộ)
Mở cửa toàn bộ (hay cam kết toàn bộ) có nghĩa là không áp dụng bất cứ hạn chế nào về tiếp cận thị trường hay đối xử quốc gia đối với một hoặc nhiều dịch vụ hay đối với một hoặc nhiều phương thức cung cấp dịch vụ. Trong trường hợp này, thành viên có liên quan sẽ thể hiện trong Biểu cam kết của mình dòng chữ “Không hạn chế” (None) vào các cột hoặc các phương thức thích hợp. Tuy nhiên, các biện pháp liệt kê trong phần cam kết chung vẫn được áp dụng.
Có một điểm cần lưu ý là cam kết "không hạn chế" trong cột tiếp cận thị trường chỉ có ý nghĩa với 6 biện pháp mà GATS liệt kê. Các biện pháp mang tính hạn chế tiếp cận thị trường nhưng không nằm trong 6 biện pháp mà GATS liệt kê có thể vẫn được áp dụng nếu không vi phạm các cam kết khác hoặc các nguyên tắc cơ bản khác của GATS.
Ví dụ, tại dịch vụ bảo hiểm nhân thọ, một thành viên ghi dòng chữ "Không hạn chế" vào Phương thức 3 của cả hai cột tiếp cận thị trường và đối xử quốc gia. Điều đó có nghĩa là thành viên đó sẽ không áp dụng bất kỳ hạn chế nào trong số 6 hạn chế mà GATS đã liệt kê đối với hiện diện thương mại của nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài và khi đã hiện diện trên lãnh thổ của thành viên, nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài sẽ được hưởng sự đối xử bình đẳng như các nhà cung cấp dịch vụ trong nước. Tuy nhiên, thành viên có liên quan vẫn có quyền quy định mức vốn pháp định cho hiện diện thương mại, thí dụ như phải có 100 triệu USD mới được thành lập công ty bảo hiểm nhân thọ. Quy định này không bị coi là vi phạm cam kết nếu nó cũng được áp dụng cho các công ty bảo hiểm nhân thọ trong nước (tuân thủ cam kết về đối xử quốc gia) và cho tất cả các công ty bảo hiểm đến từ bên ngoài (tuân thủ nguyên tắc tối huệ quốc).
2. Mở cửa kèm theo các hạn chế (cam kết một phần)
Cam kết một phần xảy ra khi thành viên có liên quan chấp nhận đưa một ngành/phân ngành dịch vụ nào đó hay một phương thức cung cấp dịch vụ nào đó vào Biểu cam kết nhưng lại liệt kê (tại các vị trí thích hợp) các biện pháp hạn chế nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài. Khi đó, thành viên thường thể hiện trong Biểu cam kết của mình dòng chữ “Không hạn chế, ngoại trừ..” (None, except…) hoặc “Chưa cam kết, ngoại trừ..” (Unbound, except…).
Ví dụ, tại Phương thức 2, cột tiếp cận thị trường của dịch vụ giáo dục, một thành viên ghi "Không hạn chế, trừ giáo dục tiểu học và trung học". Ghi như vậy có nghĩa là thành viên đó sẽ không áp dụng các biện pháp hạn chế công dân của mình ra nước ngoài để tiếp nhận giáo dục đại học và các loại hình giáo dục khác dành cho người lớn. Cam kết như thế được coi là "cam kết một phần" bởi thành viên vẫn có quyền duy trì các hạn chế đối với việc ra nước ngoài để theo học tiểu học và trung học.
Một ví dụ khác, tại Phương thức 1, cột tiếp cận thị trường, dịch vụ phân phối, một thành viên ghi "Chưa cam kết, ngoại trừ bán phần mềm máy tính qua mạng". Ghi như vậy có nghĩa là thành viên sẽ không áp dụng bất kỳ hạn chế nào, kể cả hạn chế về thanh toán, đối với việc mua bán phần mềm máy tính qua mạng. Đối với các sản phẩm khác, thành viên vẫn duy trì quyền đưa ra các hạn chế nếu cần thiết bởi đã ghi rõ là "Chưa cam kết". Đây cũng là ví dụ cho thấy khi đi vào từng ngành cụ thể, các bên liên quan vẫn có thể sử dụng phương pháp tiếp cận chọn – cho dù theo nguyên tắc chung, phương pháp tiếp cận chọn – bỏ phải được áp dụng.
Mở cửa một phần còn xảy ra khi một nhánh nhỏ của ngành hoặc phân ngành bị loại trừ hoàn toàn ra khỏi phạm vi cam kết. Ví dụ, tại cột mô tả ngành, một thành viên ghi "Dịch vụ bảo hiểm nhân thọ (CPC 8129), ngoại trừ bảo hiểm hưu trí". Trong trường hợp này, thành viên không đưa ra cam kết gì cho bảo hiểm hưu trí, một phân nhánh của ngành bảo hiểm nhân thọ. Tương tự, trong ngành dịch vụ phân phối, một thành viên có thể ghi rõ tại phần tiêu đề (chapeau) rằng "các cam kết dưới đây không áp dụng cho hoạt động phân phối thuốc lá, xăng dầu, dược phẩm và đường". Trong trường hợp này, thành viên có quyền duy trì mọi hạn chế đối với nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài trong việc phân phối thuốc lá, xăng dầu, dược phẩm và đường.
3. Chưa cam kết (Unbound)
Nếu muốn duy trì khả năng đưa ra các biện pháp hạn chế về tiếp cận thị trường và đối xử quốc gia đối với một hoặc nhiều dịch vụ (hay với một hoặc nhiều phương thức cung cấp dịch vụ), thành viên có thể ghi dòng chữ "Chưa cam kết" (Unbound) vào các vị trí thích hợp trong Biểu cam kết, thường là vào các Phương thức cung cấp dịch vụ tại 2 cột tiếp cận thị trường và đối xử quốc gia.
Trong một số trường hợp, một phương thức cung cấp dịch vụ có thể là không khả thi về mặt kỹ thuật. Ví dụ như cung cấp dịch vụ xây dựng qua biên giới. Khi đó, thành viên có thể ghi “Chưa cam kết do không khả thi về mặt kỹ thuật".
SOURCE: CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ BỘ CÔNG THƯƠNG
(MKLAW FIRM: Bài viết được đăng tải nhằm mục đích giáo dục, phổ biến, tuyên truyền pháp luật và chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước không nhằm mục đích thương mại. Thông tin nêu trên chỉ có giá trị tham khảo và có thể một số thông tin pháp lý đã hết hiệu lực tại thời điểm hiện tại vì vậy Quý khách khi đọc thông tin này cần tham khảo ý kiến luật sư, chuyên gia tư vấn trước khi áp dụng vào thực tế.)
---------------------------------------------------------------
THAM KHẢO MỘT SỐ DỊCH VỤ TƯ VẤN LUẬT:
2. Tư vấn pháp luật đất đai;
3. Tư vấn cấp lại sổ đỏ bị mất;
4. Tư vấn mua bán, chuyển nhượng đất đai;
5. Tư vấn đổi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất;
6. Tư vấn cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do trúng đấu giá;
4. Các biện pháp chống phá giá trong khuôn khổ WTO và pháp luật chống phá giá của Hoa Kỳ
Trong suốt vòng đàm phán Tokyo, các Bên trong Hiệp định GATT đã đàm phán về Hiệp định chống bán phá giá và sự ra đời của Hiệp định thực thi Điều VI của Hiệp định chung về thuế quan và thương mại 1994 là một nỗ lực rất lớn của các Bên. Hiệp định thực thi Điều Vi của GATT gồm có 18 Điều và 2 Phụ lục, trong đó có Điều II và Điều III là hai Điều quan trọng nhất khi xác định một vụ kiện chống bán phá giá (Điều II quy định về việc xác định sự tồn tại của bán phá giá và các quy tắc xác định, Điều III quy định về xác định tổn hại - tức là xác định liệu ngành công nghiệp của nước nhập khẩu có bị thiệt hại hay đe doạ gây thiệt hại không và quy tắc để xác định thiệt hại).
Hoa Kỳ là một trong những nước có luật chống bán phá giá trước khi GATT ra đời, theo luật pháp Hoa Kỳ thì hai cơ quan thực thi luật chống bán phá giá là Bộ Thương mại Hoa Kỳ (DOC) và Uỷ ban Thương mại quốc tế Hoa Kỳ (ITC), trong đó Bộ Thương mại là một cơ quan thuộc nội các của Tổng thống , được điều hành bởi yếu tố chính trị, chịu trách nhiệm tiến hành điều tra chính thức các vụ việc về chống bán phá giá, trợ cấp, đồng thời chịu trách nhiệm trong việc tính toán các mức độ phá giá, trợ cấp khi một vụ kiện bắt đầu. Uỷ ban thương mại quốc tế Hoa Kỳ là cơ quan liên bang bán tư pháp, độc lập, gồm có 6 Uỷ viên (3 thuộc Uỷ viên Đảng cộng hoà và 3 Uỷ viên thuộc Đảng dân chủ), cơ quan này chịu trách nhiệm xác định liệu hàng hoá nhập khẩu có phải là nguyên nhân gây thiệt hại cho ngành công nghiệp nội địa Hoa Kỳ hay không.
>> Luật sư tư vấn luật đầu tư nước ngoài trực tuyến gọi: 1900.6162
Việc áp dụng thuế chống bán phá giá là nhằm mục đích ngăn chặn các nhà xuất khẩu nước ngoài bán phá giá, tức là bán hàng với giá thấp hơn giá bán tại thị trường trong nước hoặc thấp hơn chi phí để sản xuất ra sản phẩm đó, do vậy những “thiệt hại đáng kể” hoặc “đe doạ gây thiệt hại” cho ngành công nghiệp nội địa phải được chỉ ra trước khi áp dụng thuế chống bán phá giá. Luật pháp Hoa Kỳ quy định những quy tắc đặc biệt áp dụng cho những nước có nền kinh tế phi thị trường (DOC đã ra quyết định Trung Quốc và Việt Nam là những nước có nền kinh tế phi thị trường).
Theo quy định của luật pháp Hoa Kỳ, có ba loại mức thuế chống bán phá giá, đó là loại mức thuế được tính toán của các công ty được lựa chọn (mức thuế dành cho bị đơn bắt buộc); loại mức thuế bình quân gia quyền cho tất cả những doanh nghiệp chứng minh không có sự kiểm soát của Chính phủ (mức thuế dành cho bị đơn tự nguyện); loại mức thuế cuối cùng là loại mức thuế toàn quốc dành cho những doanh nghiệp không tham gia vào vụ kiện hoặc là không thể chứng minh họ không bị sự kiểm soát của Chính phủ.
Lựa chọn bị đơn: Bộ Thương mại Hoa Kỳ được quyền lựa chọn bị đơn bắt buộc là những nhà xuất khẩu lớn nhất hoặc dựa trên việc chọn mẫu theo phương pháp thống kê, trước đây DOC thường lựa chọn bị đơn bắt buộc trong số những nhà xuất khẩu hàng đầu, chiếm từ 40 – 50% lượng hàng hoá nhập khẩu. Những bị đơn bắt buộc này phải trả lời bảng câu hỏi về chống bán phá giá do DOC đưa ra. Bị đơn không bắt buộc bao gồm những nhà sản xuất không được lựa chọn là bị đơn bắt buộc, những bị đơn không bắt buộc có thể gửi đơn xin hưởng thuế suất riêng rẽ. Những nhà sản xuất không được lựa chọn là bị đơn bắt buộc và không cung cấp bản trả lời hoàn chỉnh các câu hỏi của DOC về số lượng và giá trị và không có đơn xin áp dụng mức thuế suất riêng rẽ sẽ là đối tượng áp dụng mức thuế suất toàn quốc mang tính chất trừng phạt (mức thuế suất này được lấy từ đơn khiếu nại của ngành công nghiệp nội địa Hoa Kỳ gửi đến DOC, và nhìn chung đây là mức thuế suất cao nhất).
Nước và giá trị thay thế: đối với nền kinh tế phi thị trường, DOC lựa chọn một nước thay thế để có được nguồn cung cấp dữ liệu thay thế, dữ liệu này được sử dụng để tính toán giá trị thông thường (nước được chọn làm nước thay thế phải có các tiêu chí: có mức độ phát triển kinh tế có thể so sánh được với nước có nền kinh tế phi thị trường; có một lượng đáng kể những nhà sản xuất, hàng hoá có thể so sánh được và có những dữ liệu tốt để xác định các giá trị thay thế). Tuy nhiên, bên khiếu kiện và bị đơn có thể đệ trình những ý kiến bình luận về việc lựa chọn nước thay thế tương thích. Trong bối cảnh bền kinh tế phi thị trường DOC sẽ tính nguyên vật liệu thô từ một nước thay thế để làm giá trị thay thế, tuy nhiên những bị đơn mua nguyên vật liệu thô từ nước có nền kinh tế thị trường thì DOC sẽ sử dụng giá mua thực tế để tính toán giá trị cho các nguyên vật liệu thô của các bị đơn (giá trị đầu vào của nước có nền kinh tế thị trường).
Quyết định sơ bộ: Quyết định sơ bộ của DOC được ban hành không muộn hơn 190 ngày kể từ ngày bắt đầu tiến hành điều tra, Quyết định sơ bộ đánh dấu việc bắt đầu của các “biện pháp tạm thời” và trách nhiệm đối với thuế chống bán phá giá cho các nhà nhập khẩu Hoa Kỳ nhập khẩu hàng hoá thuộc đối tượng điều tra. Nếu cả DOC và ITC đều xác định có tồn tại tình trạng khẩn cấp thì những biện pháp tạm thời có thể sẽ được áp dụng 90 ngày trước ngày ban hành Quyết định sơ bộ trên cơ sở hồi tố (tình trạng khẩn cấp là việc hàng hoá được nhập khẩu ồ ạt vào Hoa Kỳ sau khi tiến hành điều tra hoặc sau khi có thông tin rộng rãi về việc đang có đơn khởi kiện).
Thẩm tra: DOC sẽ tiến hành việc thẩm tra nhằm kiểm tra sổ sách để xác nhận hoặc phủ nhận tính giá trị pháp lý của tất cả những thông tin mà doanh nghiệp là bị đơn đã đệ trình cho DOC, tất cả những dữ liệu được rà soát, so sánh với tài liệu gốc của các doanh nghiệp là bị đơn, trong trường hợp DOC phát hiện có hành vi không trung thực thì sẽ có những biện pháp nghiêm khắc để xử lý.
Bản biện luận tóm tắt và điều trần: trước khi đưa ra quyết định cuối cùng, DOC có thể sẽ tổ chức một phiên điều trần (theo yêu cầu của bất kỳ bên có quyền lợi liên quan nào), tại phiên điều trần luật sư đại diện cho bên khởi kiện và bị đơn trình bày những tranh luận liên quan đến nội dung vụ kiện. Sau đó, các bên sẽ chuẩn bị và đệ trình bản biện luận tóm tắt xử lý những vấn đề quan trọng của vụ việc, sau đó là những bản biện luận phản bác tóm tắt, phản bác lại những quan điểm được nêu trong bản biện luận của các bên đối lập.
Quyết định cuối cùng: Quyết định cuối cũng của DOC được ban hành không muộn hơn 325 ngày kể từ ngày bắt đầu tiến hành điều tra, kèm theo Quyết định cuối cùng là một Bản ghi nhớ về những quyết định và các vấn đề, nội dung của Bản ghi nhớ xử lý những tranh luận của các bên trong vụ kiện, đồng thời đưa ra quyết định hoặc quan điểm của DOC về từng vấn đề.
Nguồn: Cổng thông tin Bộ Tư pháp
(LUATMINHKHUE.VN: Bài viết được đăng tải nhằm mục đích giáo dục, phổ biến, tuyên truyền pháp luật và chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước không nhằm mục đích thương mại. Thông tin nêu trên chỉ có giá trị tham khảo và có thể một số thông tin pháp lý đã hết hiệu lực tại thời điểm hiện tại vì vậy Quý khách khi đọc thông tin này cần tham khảo ý kiến luật sư, chuyên gia tư vấn trước khi áp dụng vào thực tế.)
DỊCH VỤ TƯ VẤN PHÁP LUẬT LIÊN QUAN:
1. Tư vấn xin cấp phép đầu tư;
2. Tư vấn cấp giấy chứng nhận đầu tư;
3. Tư vấn thành lập doanh nghiệp liên doanh;
4. Các dịch vụ cung cấp cho nhà đầu tư trong nước;
5. Pháp luật kinh doanh bảo hiểm trước yêu cầu sửa đổi, bổ sung để phù hợp với cam kết WTO và thực tiễn
Bài viết này phân tích những điểm không phù hợp cũng như nhữngnhược điểm đó, đồng thời vạch ra các yêu cầu và cách thức sửa đổi bổ sung pháp luật hiện hành trong bối cảnh các thời hạn bãi bỏ các hạn chế mở cửa thị trường đã cận kề trong khi việc sửa đổi bổ sung lại chưa được đưa vào chương trình xây dựng luật.
I. Một số vấn đề đặt ra từ cam kết WTO về mở cửa thị trường bảo hiểm Việt Nam
1. Trong WTO, bảo hiểm và các dịch vụ liên quan đến bảo hiểm là một phân ngành của dịch vụ tài chính. Việt Nam cam kết đối với bảo hiểm gốc, gồm bảo hiểm nhân thọ (trừ bảo hiểm y tế) và bảo hiểm phi nhân thọ; tái bảo hiểm và nhượng tái bảo hiểm; trung gian bảo hiểm (như môi giới bảo hiểm và đại lý bảo hiểm); dịch vụ hỗ trợ bảo hiểm (như tư vấn, dịch vụ tính toán, đánh giá rủi ro và giải quyết bồi thường). Cam kết này bao phủ những hoạt động được xem là kinh doanh bảo hiểm và những hoạt động liên quan thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật Kinh doanh bảo hiểm (Luật KDBH).[1] Như vậy, các loại bảo hiểm có tính chất kinh doanh đều thuộc đối tượng mở cửa thị trường, mặc dù ở các mức độ khác nhau. Tuy nhiên, Luật KDBH đã không thể dự liệu được hết mức độ cam kết và như vậy đã không có đầy đủ các công cụ pháp lý cũng như một số công cụ pháp lý đã không còn phù hợp để thực hiện các cam kết này.
2. Việt Nam cam kết không hạn chế tiếp cận thị trường và đối xử quốc gia với phương thức tiêu dùng ở nước ngoài (hay “tiêu dùng ngoài lãnh thổ”). Điều này được hiểu là việc người tiêu dùng của một Thành viên WTO di chuyển sang lãnh thổ Việt Nam để sử dụng dịch vụ bảo hiểm thì được quyền tham gia thị trường và không có sự đối xử phân biệt so với người tiêu dùng trong nước khi sử dụng dịch vụ bảo hiểm tương tự.
Nội dung cam kết này đặt ra vấn đề liên quan đến cơ chế thiết lập quan hệ bảo hiểm thương mại một cách bình đẳng cho các giao dịch bảo hiểm liên quan đến người tiêu dùng nước ngoài. Tuy nhiên hiện nay điều này dường như còn khá mới mẻ đối với thị trường Việt Nam. Pháp luật kinh doanh bảo hiểm cũng không đề cập việc tham gia bảo hiểm theo phương thức tiêu dùng ngoài lãnh thổ có điểm gì đặc biệt không. Nói cách khác, chưa có cơ chế điều chỉnh việc cung cấp dịch vụ bảo hiểm đối với thực thể di chuyển trong trường hợp phát sinh quan hệ hoặc có tranh chấp xảy ra. Trong khi đó đặc tính “di chuyển” không ổn định của thực thể tiêu dùng ngoài lãnh thổ sẽ làm nảy sinh các vấn đề khác biệt cần được xác định như: đối tượng bảo hiểm (tài sản, trách nhiệm, con người), phạm vi bảo hiểm, điều kiện bảo hiểm, thời hạn bảo hiểm.. Các nội dung này sẽ thay đổi một khi họ dịch chuyển từ nơi này đến nơi khác.
3. Việt Nam cam kết đối xử quốc gia và không hạn chế tiếp cận thị trường đối với phương thức cung cấp qua biên giới đối với dịch vụ bảo hiểm cung cấp cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, người nước ngoài làm việc tại Việt Nam; dịch vụ tái bảo hiểm; dịch vụ bảo hiểm vận tải quốc tế (gồm vận tải biển quốc tế, hàng không thương mại quốc tế, hàng hóa đang vận chuyển quá cảnh quốc tế); dịch vụ môi giới bảo hiểm và môi giới tái bảo hiểm; dịch vụ tư vấn, tính toán, đánh giá rủi ro và giải quyết bồi thường.
Theo cam kết này, các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài được phép cung cấp các dịch vụ bảo hiểm cho các dự án, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, người nước ngoài làm việc tại Việt Nam mà không cần thành lập pháp nhân tại Việt Nam. Như vậy, cam kết này mở ra nhiều cơ hội cho các dự án hoặc các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam lựa chọn doanh nghiệp để thiết lập quan hệ bảo hiểm thay vì chỉ được phép giao dịch với doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam. Điều này đặc biệt ảnh hưởng trực tiếp đến loại hình bảo hiểm phi nhân thọ mà hiện nay các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước đang nắm giữ thị phần lớn.
Tuy nhiên, cam kết này làm phát sinh mâu thuẫn với nguyên tắc cơ bản trong hoạt động bảo hiểm được ghi nhận tại Luật KDBH, theo đó “tổ chức, cá nhân có nhu cầu bảo hiểm chỉ được tham gia bảo hiểm tại doanh nghiệp bảo hiểm hoạt động ở Việt Nam”[2]. Thậm chí, nguyên tắc này còn được tái khẳng định bởi văn bản dưới luật ngay cả khi cam kết của Việt Nam với WTO đã có hiệu lực, theo đó “tổ chức, cá nhân có nhu cầu tham gia bảo hiểm có quyền lựa chọn doanh nghiệp bảo hiểm và chỉ được tham gia bảo hiểm tại doanh nghiệp bảo hiểm được phép hoạt động tại Việt Nam”[3].
Mặc dù, mâu thuẫn này được giải quyết bởi nguyên tắc “hiệu lực của luật quốc tế cao hơn hiệu lực của luật quốc gia” (hay “ưu tiên áp dụng luật quốc tế trước luật quốc gia”) và được ghi nhận ngay trong Luật KDBH[4] cũng như Nghị quyết số 71/2006/QH11[5], tuy nhiên phần lớn các quy phạm luật quốc tế là cần được nội luật hóa, vì chỉ một số ít các cam kết quốc tế là được quy định “đủ rõ, chi tiết” mới có thể được áp dụng trực tiếp. Đối với lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm, Nghị quyết số 71/2006/QH11 chỉ mới nhận thấy các cam kết gia nhập WTO “đủ rõ, chi tiết” để không áp dụng một quy định của Luật KDBH, theo đó “Trong trường hợp tái bảo hiểm cho các doanh nghiệp bảo hiểm ở nước ngoài, doanh nghiệp bảo hiểm phải tái bảo hiểm một phần trách nhiệm đã nhận bảo hiểm cho doanh nghiệp kinh doanh tái bảo hiểm trong nước theo quy định của Chính phủ”[6]. Nhưng mặt khác Quốc hội cũng đã không loại trừ rằng còn có các cam kết khác “đủ rõ, chi tiết”, nên cũng còn giao cho Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trách nhiệm rà soát các cam kết được quy định đủ rõ, chi tiết nhưng chưa được ghi trong Phụ lục đính kèm Nghị quyết này để áp dụng trực tiếp và báo cáo Ủy ban thường vụ Quốc hội[7]. Các cam kết khác không được quy định “đủ rõ, chi tiết” cần phải được nội luật hóa thông qua việc các cơ quan này “rà soát các văn bản quy phạm pháp luật để trình Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới; sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới các văn bản quy phạm pháp luật thuộc thẩm quyền phù hợp với cam kết của Việt Nam với Tổ chức thương mại thế giới”[8].
4. Đối với phương thức hiện diện thương mại, Việt Nam cam kết đối xử quốc gia và không hạn chế tiếp cận thị trường, ngoại trừ việc doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài không được kinh doanh dịch vụ bảo hiểm bắt buộc, bao gồm bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba, bảo hiểm xây dựng và lắp đặt, bảo hiểm các công trình dầu khí và các công trình dễ gây nguy hiểm đến an ninh cộng đồng và môi trường. Tuy nhiên, xét về mặt thời gian đây chỉ là một hạn chế có tính chất “hoãn binh”, vì sẽ được bãi bỏ vào ngày 01/01/2008. Như vậy, sau thời điểm này, thị trường bảo hiểm bắt buộc hoàn toàn được mở cửa đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài và sau 5 năm từ khi gia nhập, doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài mới được thành lập chi nhánh bảo hiểm phi nhân thọ, “căn cứ vào các quy định quản lý thận trọng”[9]. Theo ghi nhận tại Báo cáo của Ban công tác về việc Việt Nam gia nhập WTO (sau đây: Ban công tác), “các luật lệ và quy định cần có để thực thi cam kết này sẽ được xây dựng với mục tiêu thúc đẩy đầu tư và tạo ra các cơ hội thương mại có ý nghĩa, bảo đảm phát triển bền vững thị trường bảo hiểm Việt Nam, bảo vệ lợi ích chính đáng của những người ký kết hợp đồng bảo hiểm và sự an toàn, lành mạnh của thị trường bảo hiểm Việt Nam… việc quản lý những chi nhánh này sẽ được thực hiện phù hợp với các tiêu chuẩn và nguyên tắc trong ngành bảo hiểm được quốc tế thừa nhận của Hiệp hội Các nhà quản lý Bảo hiểm Quốc tế (IAIS)”[10].
Chi nhánh được cấp phép thành lập, với tư cách là đơn vị phụ thuộc có chức năng kinh doanh của doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài, đương nhiên được phép kinh doanh bảo hiểm trong phạm vi cam kết đối với phương thức hiện diện thương mại.
Cam kết này làm cho các hạn chế về nội dung, phạm vi và địa bàn hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm có vốn đầu tư nước ngoài không còn phù hợp,[11] bởi vì các doanh nghiệp loại này được hưởng quy chế đối xử quốc gia.[12]
Cam kết này cũng còn làm cho các quy định của Luật KDBH về hình thức hoạt độngtại Việt Nam của doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài không còn phù hợp, vì Luật này chỉ mới cho phép doanh nghiệp bảo biểm nước ngoài được đặt văn phòng đại diện tại Việt Nam[13]. Các quy định liên quan của Luật này và các quy định chi tiết thi hành các điều khoản đó[14] theo đó cũng cần phải được sửa đổi, bổ sung trước khi thời hạn 5 năm kết thúc.
5. Việt Nam chưa cam kết hiện diện thể nhân trừ các cam kết chung được áp dụng cả đối với dịch vụ bảo hiểm. Theo cam kết chung, Việt Nam cho phép nhập cảnh và lưu trú tạm thời đối với các thể nhân là người di chuyển trong nội bộ doanh nghiệp, nhân sự khác, người chào bán dịch vụ, người chịu trách nhiệm về thành lập hiện diện thương mại, cũng như nhà cung cấp dịch vụ theo hợp đồng.
Như vậy với việc cho phép có sự hiện diện thương mại của các tổ chức bảo hiểm nước ngoài tại Việt Nam, hoặc thông qua việc thực hiện cung cấp dịch vụ theo hợp đồng (có thể theo phương thức cung cấp qua biên giới), hoặc đơn giản là chào bán dịch vụ (có thể xem là một hình thức xúc tiến thương mại) thì thể nhân có thể hiện diện tại Việt Nam để thực hiện những hoạt động có liên quan đến việc cung ứng dịch vụ bảo hiểm. Việc không cam kết hiện diện thể nhân trong phân ngành dịch vụ bảo hiểm giúp bảo vệ thị trường lao động trong lĩnh vực này. Trong khi đó các cam kết chung về hiện diện thể nhân tạo điều kiện cho các doanh nghiệp bảo hiểm và môi giới bảo hiểm nước ngoài có thể thực hiện được phương thức cung cấp dịch vụ qua biên giới cũng như phương thức hiện diện thương mại trong phạm vi mở cửa thị trường của Việt Nam.
II. Những vấn đề đặt ra từ thực tiễn và pháp luật kinh doanh bảo hiểm hiện hành
1. Tình hình thị trường bảo hiểm trong thời gian qua trở nên sôi động với những sự kiện đáng chú ý. Cũng như các lĩnh vực khác, hoạt động chuyển nhượng đã lan sang thị trường kinh doanh bảo hiểm. Đó là trường hợp Allianz (Đức) rút khỏi thị trường thông qua việc công ty này và IFC chuyển nhượng toàn bộ vốn điều lệ của họ trong Công ty TNHH bảo hiểm Allianz Việt Nam cho QBE (Australia) hay trường hợp Dai-ichi (Nhật) mua lại toàn bộ vốn điều lệ của Liên doanh Bảo Minh/CMG. New York Life là công ty bảo hiểm nhân thọ lớn nhất của Mỹ được cấp phép vào tháng 6/2005 cũng đã tuyên bố rút khỏi thị trường Việt Nam. Việc một số công ty bảo hiểm rút khỏi thị trường là hiện tượng bình thường, có thể chỉ phụ thuộc vào chiến lược kinh doanh của tập đoàn. Trong trường hợp Việt Nam, điều đó không phản ánh sự phát triển tiêu cực của thị trường, bởi hầu hết trường hợp rút khỏi thị trường đều được công ty khác thế chân. Điều này thể hiện quy luật tất yếu của thị trường: quá trình phát triển và đào thải. Quá trình này cũng làm xuất hiện quan hệ mua, bán, hợp nhất, sáp nhập, chia tách, thậm chí phá sản và giải thể doanh nghiệp. Nhưng hiện nay, cơ chế pháp lý cho các hoạt động này chưa được thiết lập một cách phù hợp, còn quá sơ lược với loại hình doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm. Các vấn đề quan trọng phát sinh từ hoạt động này cần được nghiên cứu để điều chỉnh hoặc hoàn thiện là các vấn đề liên quan đến hợp đồng bảo hiểm còn hiệu lực, trách nhiệm bảo hiểm, trách nhiệm của công ty môi giới, chuyển dịch vốn, quyền lợi của đại lý…
2. Bên cạnh đó hoạt động gia nhập thị trường có dấu hiệu gia tăng. Năm 2006, 2 doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ Mỹ được cấp phép ở Việt Nam là ACE Life và Liberty Mutual, 3 doanh nghiệp bảo hiểm vốn trong nước được thành lập mới. Ngành kinh doanh bảo hiểm phát triển đáng kể về sản phẩm. Từ chỗ chỉ có 22 dòng sản phẩm bảo hiểm năm 1993, sau gần 14 năm con số này đã lên đến khoảng 500 sản phẩm bảo hiểm. Trong số đó, sản phẩm bảo hiểm liên kết đầu tư được xem là sản phẩm mới của năm 2006 cho phép người mua bảo hiểm thêm quyền quyết định đầu tư sinh lợi.[15]
Cơ cấu thị phần của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và vốn trong nước có sự chuyển dịch đáng kể. Đến nay, trong khi trên thị trường bảo hiểm nhân thọ doanh thu của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chiếm tỷ trọng 61,99%, thì với bảo hiểm phi nhân thọ doanh thu của doanh nghiệp vốn trong nước chiếm khoảng 90% doanh số toàn thị trường.[16] Lý do chính là vì tới nay doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ có vốn đầu tư nước ngoài chịu nhiều hạn chế kinh doanh. Việc dỡ bỏ các hạn chế này sẽ tác động đáng kể đến cơ cấu thị phần hiện tại.
Chính vì vậy, việc mở cửa thị trường cũng sẽ đòi hỏi những điều kiện chặt chẽ hơn nhằm bảo đảm sàng lọc chủ thể tham gia kinh doanh trên thị trường. Xét ở góc độ quản lý điều này là hoàn toàn phù hợp nhằm giảm thiểu sự rủi ro cho toàn thị trường. Điều này thể hiện ở quy định nâng mức vốn pháp định của các doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm nhằm khẳng định khả năng tài chính cần phải tương xứng với mức độ rủi ro của các doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm.[17][18] Tuy nhiên, việc đặt ra các điều kiện cao hơn đối với việc doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài so với tổ chức nước ngoài khác trong việc đầu tư thành lập doanh nghiệp bảo hiểm 100% vốn đầu tư nước ngoài hoặc doanh nghiệp bảo hiểm liên doanh giữa doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài với doanh nghiệp Việt Nam lại vừa tỏ ra bất hợp lý, vừa không phù hợp với nguyên tắc đối xử bình đẳng. Báo cáo của Ban công tác hoàn toàn không ghi nhận bất cứ một ngoại lệ cho phép có sự phân biệt đối xử nào trong vấn đề này. Sự bất hợp lý là nhãn tiền, vì điều kiện được đặt ra đối với doanh nghiệp có nghiệp vụ bảo hiểm lại cao hơn đối với các chủ thể không có nghiệp vụ bảo hiểm.
Điều này cũng tương tự như trường hợp thành lập văn phòng đại diện của doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm. Tức là có sự phân biệt giữa điều kiện thành lập[19], thời hạn hoạt động[20] của văn phòng đại diện của các doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm trong nước với các doanh nghiệp bảo hiểm, môi giới bảo hiểm nước ngoài. Trong khi đó Biểu cam kết dịch vụ không ghi nhận hạn chế nào trong vấn đề này.
Không chỉ vậy, những quy định điều kiện cấp phép hiện hành còn mang tính định tính[21], điều này sẽ không phù hợp với cam kết tự do hóa thị trường, đặt ra yêu cầu phải quy định điều kiện cụ thể hơn. Các quy định có tính đặc trưng của cơ chế xin – cho trong nền kinh tế kế hoạch hóa như vậy cần được bãi bỏ, nhằm tăng tính minh bạch trong quản lý nhà nước đối với các hoạt động kinh doanh.
3. Vấn đề trục lợi bảo hiểm xuất hiện ngày càng nhiều tại Việt Nam. Trục lợi bảo hiểm có nguyên do từ người tham gia bảo hiểm, cũng có thể từ đại lý bảo hiểm, kể cả trường hợp có sự cấu kết từ người điều hành doanh nghiệp bảo hiểm, đặc biệt là doanh nghiệp bảo hiểm có vốn thuộc sở hữu nhà nước. Theo thống kê chưa đầy đủ thì có hơn 80% các trường hợp trục lợi bảo hiểm là do có sự tiếp tay từ nội bộ doanh nghiệp bảo hiểm. Điều này một mặt gây hại cho chính doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm, mặt khác gây ra tình trạng lũng đoạn trên thị trường, xáo trộn trật tự quản lý nhà nước cũng như làm thay đổi bản chất của hoạt động kinh doanh “rủi ro” này[22]. Những quy định hiện hành về xử lý đối với trục lợi bảo hiểm còn quá đơn giản.[23] Đối tượng trục lợi bảo hiểm hết sức đa dạng. Trong bối cảnh thị trường ngày càng phong phú và đa dạng các sản phẩm bảo hiểm cũng như các doanh nghiệp bảo hiểm thì việc chấn chỉnh điều này càng cần được xem xét một cách thấu đáo để có thể kịp thời ngăn chặn trước khi không thể kiểm soát được.
4. Theo quy định của Luật KDBH, doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm chỉ được tổ chức theo hình thức doanh nghiệp bảo hiểm nhà nước (nay là công ty nhà nước), công ty cổ phần bảo hiểm, tổ chức bảo hiểm tương hỗ, doanh nghiệp bảo hiểm liên doanh, doanh nghiệp bảo hiểm 100% vốn đầu tư nước ngoài.[24] Quy định này không còn phù hợp với Luật Doanh nghiệp 2020. Từ Luật Doanh nghiệp nhà nước năm 2003, “doanh nghiệp nhà nước” không còn là khái niệm chỉ một loại hình doanh nghiệp, mà chỉ còn là khái niệm chỉ doanh nghiệp trong đó Nhà nước sở hữu trên 50% vốn điều lệ. Tương tự, từ Luật Doanh nghiệp 2020 và Luật Đầu tư khái niệm “doanh nghiệp liên doanh” và “doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài” không còn được sử dụng với tư cách là các khái niệm chỉ các loại hình doanh nghiệp nữa. Trong khi đó khái niệm “doanh nghiệp liên doanh” và “doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài” trong Luật KDBH được sử dụng đồng nghĩa với các khái niệm tương ứng của Luật Đầu tư nước ngoài 1006/2000, nghĩa là các khái niệm chỉ các loại hình doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được thành lập dưới hình thức công ty TNHH. Như vậy, trước Luật Doanh nghiệp 2020, doanh nghiệp bảo hiểm có vốn đầu tư nước ngoài chỉ được thành lập dưới hình thức công ty TNHH. Ngược lại, doanh nghiệp bảo hiểm có vốn trong nước (trừ công ty nhà nước) lại chỉ được thành lập dưới hình thức công ty cổ phần. Nay căn cứ nguyên tắc đối xử quốc gia, nhà đầu tư nước ngoài phải được thành lập công ty cổ phần bảo hiểm và theo nguyên tắc đối xử bình đẳng thì doanh nghiệp bảo hiểm có vốn trong nước phải được thành lập cả dưới hình thức công ty TNHH.
Một loại hình kinh doanh bảo hiểm khá phổ biến trên thế giới là tổ chức bảo hiểm tương hỗ. Tuy nhiên ở Việt Nam, loại hình tổ chức bảo hiểm này còn mới mẻ, mặc dù đã được quy định khá chi tiết.[25] Theo đó, tổ chức bảo hiểm tương hỗ là tổ chức có tư cách pháp nhân được thành lập để kinh doanh bảo hiểm nhằm mục đích tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau giữa các thành viên là các tổ chức, cá nhân Việt Nam hoạt động trong cùng một lĩnh vực, ngành nghề hoặc sinh sống trên cùng một địa bàn và có cùng loại rủi ro.[26] Các quy định về về tổ chức bảo hiểm tương hỗ trong pháp luật Việt Nam là sự tiếp nhận loại hình tổ chức bảo hiểm tương ứng trong pháp luật các nước có nền kinh tế thị trường phát triển, và như vậy có khả năng đáp ứng nhu cầu được bảo hiểm của các tổ chức, cá nhân hoạt động trong cùng lĩnh vực, ngành nghề hoặc sinh sống trên cùng một địa bàn và có cùng loại rủi ro theo phương thức tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau. Nhưng theo quy định hiện hành, tổ chức bảo hiểm tương hỗ chỉ áp dụng đối với “tổ chức, cá nhân Việt Nam”. Quy định này tự hạn chế đối tượng áp dụng và như vậy hạn chế cả khả năng phát triển của loại hình tổ chức bảo hiểm này. Mặt khác, khái niệm “tổ chức Việt Nam” ở đây dường như được hiểu theo nghĩa không bao gồm doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, trong khi xét từ góc độ pháp luật doanh nghiệp thì doanh nghiệp loại này là doanh nghiệp Việt Nam vì được thành lập và tổ chức hoạt động theo pháp luật Việt Nam. Ngoài ra, quy định như vậy cũng loại trừ khả năng tổ chức, cá nhân nước ngoài (quốc tịch nước ngoài) hoạt động thương mại tại Việt Nam ký kết hợp đồng bảo hiểm với tổ chức bảo hiểm tương hỗ. Theo quan điểm của chúng tôi thì không có lý do đặc biệt để áp dụng một ngoại lệ như vậy đối với nguyên tắc đối xử quốc gia liên quan đến bảo hiểm tương hỗ và như vậy các quy định hiện hành cần phải được sửa đổi.
5. Một vấn đề được đặt ra là liệu các doanh nghiệp bảo hiểm hay doanh nghiệp môi giới bảo hiểm nước ngoài có được phép ký kết hợp đồng hợp tác kinh doanh (BCC) với các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước nhằm hợp tác kinh doanh phân chia lợi nhuận, phân chia sản phẩm mà không thành lập pháp nhân hay không?[27]. Nếu chiếu theo cam kết về mở cửa thị trường kinh doanh bảo hiểm thì doanh nghiệp bảo hiểm và môi giới bảo hiểm nước ngoài không bị hạn chế cung cấp dịch vụ qua biên giới hay hiện diện thương mại dưới hình thức này. Nhưng nếu hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh là được phép thì thông thường sẽ có sự hiện diện thể nhân nước ngoài để thực hiện hợp đồng, trong khi Việt Nam chưa cam kết đối với phương thức hiện diện thể nhân trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm, còn các cam kết chung không bao phủ sự cho phép hiện diện thể nhân để thực hiện loại hợp đồng này. Bởi vậy, một hợp đồng hợp tác kinh doanh như vậy chỉ có thể được cấp phép với điều kiện doanh nghiệp bảo hiểm hoặc môi giới bảo hiểm nước ngoài không cần sự hiện diện thể nhân để thực hiện hợp đồng. Mâu thuẫn này đặt ra vấn đề, liệu có thể vận dụng cam kết chung cho việc hiện diện thể nhân để thực hiện “hợp đồng” không?
6. Hoạt động của các đại lý bảo hiểm trong thời gian qua phản ánh tình trạng hết sức lộn xộn. Do chạy theo hoa hồng, nên nhiều đại lý đã có những biểu hiện gian dối, ép buộc mua bảo hiểm như lợi dụng vị trí của mình để buộc mua bảo hiểm, không giải thích rõ sản phẩm bảo hiểm, gian dối trong kê khai tình trạng của người tham gia bảo hiểm, thu phí bảo hiểm nhưng không nộp lại cho doanh nghiệp bảo hiểm…[28]. Các hành vi này đặc biệt gây thiệt hại cho người tham gia bảo hiểm bởi rủi ro của họ không được bảo vệ. Pháp luật lại chưa có cơ chế ràng buộc quan hệ trách nhiệm giữa đại lý bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm và người tham gia bảo hiểm. Luật KDBH quy định, “trong trường hợp đại lý bảo hiểm vi phạm hợp đồng đại lý bảo hiểm, gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người được bảo hiểm thì doanh nghiệp bảo hiểm vẫn phải chịu trách nhiệm về hợp đồng bảo hiểm do đại lý bảo hiểm thu xếp giao kết; đại lý bảo hiểm có trách nhiệm bồi hoàn cho doanh nghiệp bảo hiểm các khoản tiền mà doanh nghiệp bảo hiểm đã bồi thường cho người được bảo hiểm”.[29] Tuy nhiên các hành vi nào được xem là vi phạm hợp đồng đại lý lại không được xác định rõ. Chính vì vậy, trong nhiều trường hợp một số doanh nghiệp bảo hiểm khi gặp tình trạng này thì thường đổ lỗi cho đại lý, rũ bỏ trách nhiệm của mình, xem đấy là trách nhiệm dân sự giữa đại lý và người tham gia bảo hiểm.
7. Trong Nghị định 45/2007/NĐ-CP xuất hiện quy định về chuyên gia tính toán (Appointed Actuary),[30] theo đó chuyên gia tính toán nằm trong cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ. Tuy nhiên sự tồn tại của chức danh này có phải là bắt buộc hay không thì không được xác định. Chuyên gia tính toán có nhiệm vụ tổ chức thực hiện công tác bảo đảm an toàn tài chính cho doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ. Như vậy, trong doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ sẽ không thể xuất hiện chức danh này trong cơ cấu tổ chức của mình. Tuy nhiên bảo hiểm nhân thọ hay phi nhân thọ thì đều kinh doanh dựa trên rủi ro, nếu cho rằng vai trò của chức danh này là nhằm đảm bảo sự an toàn cho hoạt động tài chính của doanh nghiệp thì tại sao không thể tồn tại trong doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ. Mặt khác nhiệm vụ của chuyên gia tính toán dường như tương tự nhân viên kiểm soát nội bộ. Bởi vậy, chúng tôi cho rằng cần làm rõ hơn vị trí của chức danh này trong doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm.
8. Thực hiện quy định tại điểm e khoản 1 Điều 7 Luật KDBH, Chính phủ quy định “nghiệp vụ bảo hiểm liên kết đầu tư” là một loại nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ. Tuy nhiên, quy định tại khoản 1 Điều 4 Nghị định số 45/2007/NĐ-CP cũng chỉ mới dừng lại ở việc nêu tên mà không quy định chi tiết nội hàm loại nghiệp vụ này.
9. Quy định hiện hành thể hiện sự quản lý chặt chẽ hơn đối với nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ khi buộc những sản phẩm thuộc nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm sức khỏe và bảo hiểm tai nạn con người bổ trợ cho bảo hiểm nhân thọ phải tuân thủ quy tắc, điều khoản, biểu phí bảo hiểm được Bộ tài chính phê chuẩn.[31] Điều này không áp dụng với nghiệp vụ bảo hiểm phi nhân thọ. Thậm chí doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ được phép chủ động xây dựng và triển khai quy tắc, điều khoản và biểu phí bảo hiểm. Như vậy nếu không được Bộ Tài chính phê chuẩn và được quyền tự do định đoạt đối với sản phẩm bảo hiểm phi nhân thọ có thể dẫn đến tình trạng cạnh tranh không lành mạnh, thị trường hoạt động thiếu kiểm soát về mặt chất lượng đối với nghiệp vụ này. Nhất là theo dự báo trong thời gian tới nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ sẽ được nhiều doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài tham gia khai thác thì việc thắt chặt một nghiệp vụ và lơi lỏng kiểm soát nghiệp vụ còn lại có nguy cơ gây bất bình đẳng trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm và gây khó khăn trong hoạt động quản lý.
III. Kết luận
1. Năm 2003, trước thềm hội nhập, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Chiến lược phát triển thị trường bảo hiểm năm 2003-2010 (Quyết định số 175/2003/QĐ-TTg). Trên cơ sở đó, năm 2006 Bộ Tài chính ban hành Kế hoạch phát triển thị trường bảo hiểm giai đoạn 2006-2010 (Quyết định 4056/QĐ-BTC). Kế hoạch này đặt ra 6 mục tiêu, bao gồm (1) Phát triển thị trường bảo hiểm toàn diện, an toàn, hiệu quả, đáp ứng được nhu cầu bảo hiểm cơ bản của nền kinh tế và dân cư; phấn đấu tổng doanh thu phí bảo hiểm tăng bình quân giai đoạn 2001-2010 khoảng 24%/năm; tỷ trọng doanh thu toàn ngành đạt 4,2% GDP vào năm 2010; (2) Tiếp tục sắp xếp và phát triển các doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm; (3) Phát triển sản phẩm bảo hiểm theo hướng đa dạng hóa; phát triển mạng lưới đại lý bảo hiểm chuyên nghiệp, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm và các kênh phân phối khác; (4) Thực hiện mở cửa thị trường bảo hiểm theo lộ trình đã cam kết; khuyến khích các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước mở rộng phạm vi hoạt động ra nước ngoài; (5) Hoàn thiện cơ chế, chính sách về bảo hiểm tạo môi trường pháp lý bình đẳng cho doanh nghiệp mọi thành phần kinh tế; (6) Đổi mới phương thức, nâng cao năng lực quản lý đối với hoạt động kinh doanh bảo hiểm.
2. Thế nhưng, như các phân tích trên đây cho thấy khung pháp lý cho hoạt động kinh doanh bảo hiểm vẫn chứa đựng nhiều mâu thuẫn với các cam kết gia nhập WTO, cũng như gây nhiều bất cập trong hoạt động thực tiễn. Một số quy định cần phải được sửa đổi, bổ sung trước khi hạn chế về hiện diện thương mại được bãi bỏ vào ngày 01/01/2008, nhưng theo Nghị quyết số 72/2006/QH11 ngày 29/11/2006 của Quốc hội khoá XI về chương trình xây dựng Luật, Pháp lệnh năm 2007 thì Luật KDBH 2000 không có trong chương trình sửa đổi cũng như trong chương trình chuẩn bị. Mặc dù để đáp ứng một số yêu cầu quản lý, Chính phủ đã ban hành Nghị định 45/2007/NĐ-CP nhưng nội dung hướng dẫn chi tiết vẫn dựa trên những quy định đã trở nên hạn hẹp và lỗi thời của Luật KDBH. Các quy định “đủ rõ, chi tiết” của luật quốc tế để có thể áp dụng trực tiếp không nhiều; phần lớn các cam kết đòi hỏi được nội luật hóa thành các quy phạm pháp luật có thể áp dụng được bởi cơ quan quản lý nhà nước hay làm cơ sở cho các giao dịch giữa các chủ thể tham gia thị trường bảo hiểm.
[1] Luật số 24/2000/QH10 ngày 09/12/2000 về kinh doanh bảo hiểm.
[2] Khoản 1 Điều 6 Luật KDBH.
[3] Điều 3 Nghị định số 45/2007/NĐ-CP ngày 27/3/2007 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật KDBH (Nghị định số 45/2007/NĐ-CP). Đáng chú ý là Nghị định này được ban hành sau khi Quốc hội ban hành Nghị quyết số 71/2006/QH11 ngày 29/11/2006 phê chuẩn Nghị định thư gia nhập WTO của Việt Nam (Nghị quyết số 71/2006/QH11).
[4] Khoản 2 Điều 2 Luật KDBH.
[5] Đoạn 2 mục 2 Nghị quyết số 71/2006/QH11.
[6] Xem khoản 2 Điều 9 Luật KDBH, mục 3 Phụ lục kèm theo Nghị quyết số 71/2006/QH11.
[7] Điểm a mục 3 Nghị quyết số 71/2006/QH11.
[8] Điểm b mục 3 Nghị quyết số 71/2006/QH11.
[9] “Các quy định quản lý thận trọng” được đề cập tới trong cam kết về dịch vụ tài chính (Biểu cam kết dịch vụ: 7. Dịch vụ tài chính), theo GATS được hiểu là “những biện pháp vì lý do thận trọng, bao gồm các biện pháp để bảo hộ nhà đầu tư, người gửi tiền, người nắm giữ hợp đồng bảo hiểm hoặc những người nắm chứng từ tài chính đáo hạn thuộc sở hữu của một người cung cấp dịch vụ tài chính, hoặc để đảm bảo tính thống nhất và ổn định của hệ thống tài chính” (GATS, Phụ lục về các dịch vụ tài chính, mục 2(a)).
[10] Xem mục 494 Báo cáo của Ban công tác.
[11] Xem Điều 119 Luật KDBH, Điều 39 NĐ 42/2001/NĐ-CP ngày 01/8/2001 quy định chi thiết thi hành một số điều của Luật Kinh doanh bảo hiểm (nghị định này đã hết hiệu lực).
[12] Mặc dù Điều 119 Luật KDBH không trực tiếp quy định các hạn chế nội dung, phạm vi và địa bàn hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm và doanh nghiệp môi giới bảo hiểm có vốn đầu tư nước ngoài, nhưng thừa nhận quyền quy định các hạn chế đó. Bởi vậy bản thân quy định tại Điều 119 Luật KDBH cần phải được bãi bỏ, mặc dù Nghị định số 45/2007/NĐ-CP không còn có các quy định hạn chế riêng đối với doanh nghiệp bảo hiểm và doanh nghiệp môi giới bảo hiểm có vốn đầu tư nước ngoài như Nghị định số 42/2001/NĐ-CP tiền thân.
[13] Xem khoản 2 Điều 105 Luật KDBH.
[14] Điều 34, 35 Nghị định số 45/2007/NĐ-CP.
[15] Tổng kết của Bộ Tài chính Việt Nam năm 2006.
[16] Tổng kết của Bộ Tài chính Việt Nam năm 2006.
[17] Theo quy định, mức vốn pháp định của doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ được nâng lên 300 tỷ đồng, của doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ được nâng lên 600 tỷ đồng, của doanh nghiệp môi giới bảo hiểm được giữ nguyên là 4 tỷ đồng (Mức tương ứng theo quy định tại Điều 4 Nghị định 43/2001/NĐ-CP là 70 tỷ đồng (hoặc 5 triệu USD), 140 tỷ đồng (hoặc 10 triệu USD), 4 tỷ đồng (hoặc 300 ngàn USD)).
[18] Xem khoản 2, 3 Điều 6 Nghị đinh số 45/2007/NĐ-CP.
[19] Điều 107 Luật KDBH.
[20] Điều 37 Nghị định 45/NĐ-CP
[21] Theo khoản 2 Điều 62 Luật KDBH thì việc cấp giấy phép thành lập và hoạt động cho doanh nghiệp bảo hiểm phải phù hợp với quy hoạch, kế hoạch và định hướng phát triển thị trường bảo hiểm, thị trường tài chính của Việt Nam. Hay quy định tại khoản 4 Điều 63 Luật KDBH yêu cầu người quản trị điều hành có năng lực quản lý, chuyên môn nghiệp vụ về bảo hiểm.
[22] Xem thêm thông tin tại: http://www.mof.gov.vn/Default.aspx?tabid=612&ItemID=18236.
[23] Điều 15 Nghị định 118/2003/NĐ-CP ngày 13/10/2003 quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo hiểm chỉ quy định mức độ xử phạt đối với hành vi này mà không quy định các thành tố cấu thành hành vi trục lợi bảo hiểm.
[24] Điều 59 Luật KDBH.
[25] Nghị định số 18/2005/NĐ-CP ngày 24/2/2005 quy định về thành lập, tổ chức và hoạt động của tổ chức bảo hiểm tương hỗ (sau đây: Nghị định số 18/2005/NĐ-CP).
[26] Khoản 1 Điều 2 Nghị định số 18/2005/NĐ-CP.
[27] Điều 21, 23 Luật Đầu tư.
[28] Xem thêm thông tin tại: http://www.mof.gov.vn/Default.aspx?tabid=612&ItemID=25171
[29] Điều 88 Luật KDBH.
[30] Điều 14 Nghị định 45/2007/NĐ-CP.
[31] Khoản 2 Điều 20, Điều 21 Nghị định 45/2007/NĐ-CP.
Bộ phận tư vấn pháp luật lao động - Công ty luật Minh KHuê (sưu tầm và biên tập)