Mục lục bài viết
- 1. Khái niệm quyền tài sản.
- 2. Phân loại quyền tài sản.
- 2.1 Quyền đối vật và quyền đối nhân.
- 2.2 Quyền tài sản có thể chuyển giao và không thể chuyển giao.
- 2.3 Quyền tài sản được thực hiện trên vật hữu hình, vô hình thông qua hành vi con người.
- 3. Một số thuật ngữ khác liên quan đến tài sản
- 3.1 Quyền giữ tài sản thế chấp bắt buộc là gì?
- 3.2 Số dư nợ của tài khoản môi giới (giá trị tài sản cầm thế) là gì?
- 3.3 Tài sản thế chấp hỗn hợp là gì?
1. Khái niệm quyền tài sản.
Điều 115 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền, bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và các quyền tài sản khác.
Theo quan điểm của GS. Nguyễn Ngọc Điện thì“quyền tài sản trong luật thực định Việt Nam được hiểu là quan hệ pháp luật khác với quan hệ sở hữu mà trên cơ sở quan hệ khác đó, một lợi ích định giá được bằng tiền hình thành và thuộc về một chủ thể của quan hệ đó”
Quyền tài sản là quyền trị giá được tính bằng tiền, không đòi hỏi có sự chuyển giao trong giao dịch dân sự. Đối với quyền tài sản là đối tượng phải đáp ứng được hai yêu cầu là trị giá được tính bằng tiền và được chuyển giao cho người khác trong giao dịch dân sự. Quyền tài sản gồm có: quyền sử dụng tài sản thuê, quyền thực hiện hợp đồng, quyền đòi nợ, quyền trị giá bằng tiền, quyền sở hữu trí tuệ. Các quyền tài sản khác gắn với nhân thân thì không thể chuyển giao như: quyền cấp dưỡng, quyền thừa kế, quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại về sức khỏe.
Quyền tài sản bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và các quyền tài sản khác. Quyền tài sản có thể được phân chia thành hai loại: quyền đối vật và quyền đối nhân. Quyền đối vật là quyền của chủ thể được tác động trực tiếp vào vật để thỏa mãn nhu cầu của mình như quyền sở hữu, quyền cầm cố, quyền thế chấp, quyền hưởng hoa lợi… Quyền đối nhân là quyền của chủ thể này đối với chủ thể khác. Quyền đối nhân được đáp ứng nếu bên có nghĩa vụ thực hiện đúng và đầy đủ nghĩa vụ theo yêu cầu của bên có quyền. Ví dụ quyền yêu cầu trả nợ, giao vật…
ật dân sự 2015 rõ ràng hơn. Pháp luật có đưa ra đặc điểm quyền tài sản đó là "trị giá được bằng tiền". Ngoài ra, Bộ luật dân sự 2015 cũng liệt kê một số quyền tài sản phổ biến trên thực tế như quyền sử dụng đất, quyền sở hữu trí tuệ (ví dụ quyền tác giả với tác phẩm hay các quyền đối với sáng chế, giải pháp hữu ích .....
2. Phân loại quyền tài sản.
2.1 Quyền đối vật và quyền đối nhân.
Quyền tài sản trong Bộ luật Dân sự năm 2015 có thể được chia làm hai nhóm, quyền đối vật và quyền đối nhân. Trong quan niệm của người La-tinh, khối tài sản có của một người được tạo thành từ hai loại quyền: Quyền đối vật – tức là các quyền được thực hiện trên các vật cụ thể và xác định; quyền đối nhân – bao gồm các quyền tương ứng với các nghĩa vụ tài sản mà người khác phải thực hiện vì lợi ích của người có quyền. Hiểu một cách khái quát, quyền đối vật là quyền của chủ thể được thực hiện các hành vi trực tiếp trên những vật cụ thể mà không cần sự cho phép hay hợp tác của các chủ thể khác. Các quyền tài sản thể hiện dưới dạng quyền đối vật trong Bộ luật Dân sự năm 2015 có thể kể đến là quyền sở hữu, quyền hưởng dụng, quyền bề mặt, quyền đối với bất động sản liền kề; quyền của bên bảo đảm đối với tài sản bảo đảm…
Quyền đối vật đầy đủ toàn diện nhất được ghi nhận trong Bộ luật Dân sự năm 2015 chính là quyền sở hữu. Quyền sở hữu bao gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu theo quy định của luật (Điều 158 Bộ luật Dân sự năm 2015).Quyền sở hữu cho phép người có quyền khai thác trọn vẹn năng lực tạo giá trị vật chất, kinh tế của tài sản. Chính chủ sở hữu là người có quyền tối hậu định đoạt tài sản (thông qua việc bán, tặng cho, để thừa kế…). Việc khai thác công dụng, sử dụng tài sản của chủ sở hữu luôn được đặt trong một giới hạn do luật định nhằm phục vụ cho lợi ích chung của xã hội, của nhà nước.
Có hai loại vật quyền:
1) Vật quyền chính là các vật cho phép người có quyền thụ hưởng các tiện ích vật chất của vật liên quan và việc thực hiện tác động một cách trực tiếp lên tình trạng vật chất của đối tượng. Luật la tinh ghi nhận khá nhiều quyền thuộc nhóm này: quyển sở hữu, quyền hạn chế việc thực hiện quyển sở hữu bất động gản (của người khác), quyển sở hữu bể mặt, quyển thuê đất dài hạn, quyển hưởng hoa lợi... Trừ quyển sở hữu, tất cả các quyền còn lại đều cho phép người có quyền khai thác lợi ích từ tài sản của người khác;
2) Vật quyền phụ là các vật quyền được thực hiện không phải nhằm thụ hưởng tiện ích vật chất của vật liên quan mà nhằm khai thác giá trị tiền tệ của vật đó. Các quyển này được gắn với một quyển chủ nợ nhằm tăng cường hiệu lực của quyền chủ nợ đó. Luật gọi chung các giao dịch làm phát sinh những quyền này là các biện pháp bảo đảm đối vật cho việc thực hiện nghĩa vụ.
Quyền trực tiếp trên đối tượng, quyền đối vật chỉ bao gồm hai yếu tố: con người, chủ thể của quyển và vật, khách thể của quyển. Các quyền đối vật khác là quyền được xác lập trên tài sản của người khác. Quyển đối nhân cũng được xác lập trên tài sản của người khác. Nhưng, quyền đối vật mà không phải là quyển sở hữu cho phép người có quyền tự mình thực hiện các quyền đối với tài sản của người khác đó, mà không cần có sự tham gia bằng hành động của người sau này; đối nhân đồi hỏi người có quyền ười có tài sản thực hiện nghĩa vụ giao tài sản hoặc lợi ích vật chất gắn liền với tài sản cho mình
Bên cạnh những quyền đối vật đầy đủ còn có những quyền đối vật không đầy đủ. Điển hình cho những quyền đối vật không đầy đủđược quy định trong Bộ luật Dân sự năm 2015 là quyền hưởng dụng (Điều 257), quyền bề mặt (Điều 267), quyền đối với bất động sản liền kề(Điều 245), quyền của bên bảo đảm đối với tài sản bảo đảm (quyền của người cầm cố đối với tài sản cầm cố, quyền của người nhận thế chấp đối với tài sản thế chấp). Bản chất của những quyền này là sự phân rã của quyền sở hữu. Ở góc độ nào đó, chủ sở hữu đã chuyển giao cho các chủ thể khác một số quyền năng đối với tài sản của mình (chuyển giao quyền chiếm hữu, quyền khai thác công dụng, hưởng hoa lợi hay lợi tức từ tài sản trong một thời hạn nhất định) thông qua một giao dịch dân sự hoặc theo quy định của pháp luật.
Đối lập với quyền đối vật là quyền đối nhân. Quyền đối nhân được thiết lập trong mối quan hệ giữa hai người, hai chủ thể của quan hệ pháp luật.Có thể hiểu, quyền đối nhân là quyền cho phép một người yêu cầu một người khác đáp ứng đòi hỏi của mình nhằm thoả mãn một nhu cầu gắn liền với một lợi ích vật chất của mình.Mối quan hệ giữa hai người này còn gọi là quan hệ nghĩa vụ. Bản chất quyền đối nhân là quyền của chủ thể (chủ thể quyền) được yêu cầu một chủ thể khác (chủ thể có nghĩa vụ) phải thực hiện một hành vi nhất định, nói cách khác quyền của chủ thể quyền trong quan hệ nghĩa vụ chỉ được thỏa mãn thông qua hành vi thực hiện nghĩa vụ của chủ thể có nghĩa vụ. Tiêu biểu cho các quyền tài sản dưới dạng quyền đối nhân theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015 gồm quyền đòi nợ, quyền yêu cầu cấp dưỡng, quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại do tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm…
2.2 Quyền tài sản có thể chuyển giao và không thể chuyển giao.
Khi nhìn nhận quyền tài sản với tư cách là đối tượng giao dịch dân sự, thì Bộ luật Dân sự năm 2015 phải xác định rõ những quyền tài sản nào có thể trở thành đối tượng của giao dịch dân sự (được phép chuyển giao) và các quyền tài sản nào không trở thành đối tượng của giao dịch dân sự (không được phép chuyển giao).
Quyền tài sản khác được chuyển giao (là đối tượng của các giao dịch dân sự): quyền sở hữu công nghiệp, quyền tài sản phát sinh từ quyền tác giả, quyền đòi nợ, quyền đối với giống cây trồng, quyền được nhận số tiền bảo hiểm đối với vật bảo đảm…
khoản 3 Điều 377 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “Trường hợp nghĩa vụ là nghĩa vụ cấp dưỡng, bồi thường thiệt hại do xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín và các nghĩa vụ khác gắn liền với nhân thân không thể chuyển cho người khác được thì không được thay thế bằng nghĩa vụ khác”. Hiểu rộng ra, quy định này chỉ hạn chế một số quyền tài sản không được thay thế, chuyển giao trong các quan hệ nghĩa vụ như quyền yêu cầu cấp dưỡng, quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại do tính mạng, sức khỏe, uy tín và các quyền tài sản gắn liền với nhân thân khác. Theo nguyên tắc, các chủ thể của pháp luật dân sự được làm bất kỳ những gì luật không cấm, điều này đồng nghĩa với việc Bộ luật Dân sự năm 2015 cho phép một số quyền tài sản khác được chuyển giao (là đối tượng của các giao dịch dân sự). Ví dụ,quyền tài sản phát sinh từ quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp, quyền đối với giống cây trồng, quyền đòi nợ, quyền được nhận số tiền bảo hiểm đối với vật bảo đảm…
2.3 Quyền tài sản được thực hiện trên vật hữu hình, vô hình thông qua hành vi con người.
Nhóm các quyền tài sản có đối tượng thực hiện trên các vật hữu hình, có thể kể đến như quyền sử dụng đất; quyền sở hữu có đối tượng là vật hữu hình; các quyền hưởng dụng, quyền bề mặt… Đặc trưng của nhóm quyền này là chủ thể quyền được thực hiện những hành vi tác động trực tiếp lên vật hữu hình để thỏa mãn quyền mà không cần đến sự giúp đỡ hay cho phép của chủ thể khác. Lưu ý ở đây đối tượng của quyền phải là vật hữu hình (đất đai, nhà ở, xe máy, ô tô, máy tính…). Do vậy, để có thể thực hiện được quyền của mình thì các chủ thể quyền luôn phải thực hiện hành vi chiếm hữu thực tế đối với tài sản. Việc chiếm hữu thực tế tài sản ở góc độ nào đó là một hình thức công khai quyền của chủ thể đối với những người thứ ba khi muốn xác lập quyền lên vật.
Nhóm các quyền tài sản có đối tượng thực hiện trên các vật vô hình gắn liền với hoạt động phát minh, sáng chế, có thể kể đến như quyền đối với sáng chế, quyền đối với giải pháp hữu ích, quyền tài sản là đối tượng của quyền tác giả… Cũng giống như nhóm quyền có đối tượng thực hiện trên vật hữu hình, chủ thể quyền ở đây cũng được chủ động thực hiện hành vi để thỏa mãn quyền của mình mà không cần đến sự đồng ý hay giúp đỡ của người khác. Tuy nhiên, có điểm khác biệt với nhóm quyền trên các vật hữu hình ở chỗ, đối tượng của quyền ở đây là những “vật vô hình”. Điều này đồng nghĩa với việc thực hiện quyền của chủ thể không nhất thiết phải chiếm hữu tài sản trên thực tế. Đặc điểm này kéo theo hệ quả việc công khai quyền của chủ thể quyền phải được thực hiện thông qua cơ chế đăng ký quyền tạicơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Nhóm các quyền tài sản có đối tượng là hành vithực hiện nghĩa vụ của người khác: Các quyền tài sản thuộc nhóm này có thể được kể đến như quyền đòi nợ, quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại theo hợp đồng… Đặc trưng cơ bản của nhóm quyền này là các chủ thể quyền muốn thỏa mãn được quyền của mình luôn cần đến sự “giúp đỡ” của chủ thể khác (sự thực hiện nghĩa vụ của chủ thể mang nghĩa vụ). Người chủ nợ không thể nào có được khoản tiền cho vay nếu con nợ không thực hiện nghĩa vụ trả nợ.
3. Một số thuật ngữ khác liên quan đến tài sản
3.1 Quyền giữ tài sản thế chấp bắt buộc là gì?
Quyền giữ tài sản thế chấp bắt buộc (INVOLUNTARY LIEN) là giữ tài sản thế chấp qua đánh giá thuế chưa nộp, hoặc đánh giá đặc biệt bởi chính quyền đô thị gắn với một tài sản thực mà không có sự đồng ý của chủ sở hữu, ngược với quyền giữ tài sản thế chấp tự nguyện.
3.2 Số dư nợ của tài khoản môi giới (giá trị tài sản cầm thế) là gì?
Số dư nợ của tài khoản môi giới; giá trị tài sản cầm thế (EQUITY) là chênh lệch giữa giá trị thị trường của các chứng khoán trong tài khoản cho vay mua chứng khoán và tổng số nợ mua chứng khoán, nghĩa là tổng số tiền vay người môi giới để mua chứng khoán.
The difference between the market value of securities held in a margin account and the amount owed on them, i.e., the amount borrowed from the broker to make purchase.
The value of a property in excess of an liens and claims against it.
Vì cổ phiếu thưởng biểu thị tài sản của một công ty sau khi tất cả các giấy nợ được thanh toán dứt điểm, nó cũng được coi là Vốn cổ phần.
Since common stock, represents the assets of a corporation after all obligations have been satisfied, it also is referred to as equity.
3.3 Tài sản thế chấp hỗn hợp là gì?
Tài sản thế chấp hỗn hợp (MIXED COLLATERAL) là các loại chứng khoán khác nhau được cam kết thanh toán cho sổ tiền vay.
(Securities of different kinds pledged against the payment of borrowed money).