Căn cứ pháp lý:

- Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 12/2017/QH14;

- Bộ luật Tố tụng hình sự số 101/2015/QH13;

- Luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự năm 2015.

1. Giai đoạn từ 1945 -1988

Cách mạng tháng 8 năm 1945 thành công cùng với sự ra đời của hệ thống Toà án cách mạng, ngày 20-7-1946, Chủ tịch Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã ban hành sắc lệnh số 131/SL về tổ chức Tư pháp Công an. Việc chỉ đạo kiểm soát tổ chức và hoạt động tư pháp Công an thuộc thẩm quyền của chưởng lý, biện lý (sau này là công tố, kiểm sát) của Toà án.

Để thực hiện các nhiệm vụ điều tra, pháp luật quy định một số chức danh Công an, với tư cách là ủy viên Tư pháp Công an có toàn quyền điều tra các vụ phạm pháp như: Chức danh Trưởng ty, Trưởng phòng, Trưởng ban chính trị tư pháp hoặc các ban khác được Bộ Nội vụ chỉ định. Trong hoạt động điều tra các ủy viên Tư pháp Công an không được độc lập về mặt tố tụng 

mà phải tuân thủ sự chỉ đạo của các viên chức có thẩm quyền của ngành Toà án. Các hoạt động điều tra bí mật (trinh sát) nếu không chuyển qua trình tự "Tư pháp Công an" đều không có giá tri pháp lý để chứng minh tại toà. Trong thời kỳ từ (1945-1953) số cán bộ điều tra thực tế chỉ là người giúp việc cho ủy viên Tư pháp Công an kiêm luôn vai trò chấp pháp, xét hỏi bị can.

Đến ngày 16/02/1953 Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh số 141/SL, đổi Nha Công an Việt Nam thành Thứ Bộ Công an. Sắc lệnh này quy định tổ chức bộ máy của Thứ Bộ Công an, trong đó có Vụ Chấp pháp có nhiệm vụ điều tra, lập hồ sơ truy tố các tội phản cách mạng và hình sự khác, quản lý các trại giam; ở trong Công an tỉnh có Ban Chấp pháp, ở Công an liên khu có Phòng Chấp pháp.

Năm 1981 Chính phủ ra Nghị định số 250/NĐ-CP quy định nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức của Bộ Nội vụ. Theo Nghị định này, Cục Chấp pháp ở Bộ và Phòng Chấp pháp ở Công an tỉnh, thành phố được chia làm 2 Cục (phòng) là:

+ Cục (phòng) An ninh điều tra xét hỏi: Thụ lý điều tra xét hỏi các vụ án xâm phạm An ninh Quốc gia.

+ Cục (phòng) Cảnh sát điều tra xét hỏi: Thụ lý điều tra các vụ án hình sự khác.

Các đơn vị trinh sát hình sự, kinh tế không làm công tác điều tra tố tụng hình sự (điều tra xét hỏi) mà chỉ tập trung vào công tác bí mật, phục vụ phòng ngừa và điều tra chống tội phạm.

Như vậy, thực tiễn tổ chức và hoạt động của Cơ quan điều

tra tư pháp giai đoạn trước khi có Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 có thể rút ra một số quan điểm sau:

Đây là thời kỳ sơ khai hình thành và tồn tại Cơ quan điều tra Tư pháp công khai theo TTHS độc lập bên cạnh các Cơ quan điều tra trinh sát. Các Cơ quan điều tra Tư pháp chuyên trách chủ yếu tiến hành những biện pháp điều tra công khai nhằm bổ sung, củng cố chứng cứ thu thập được từ hoạt động trinh sát, hợp pháp hoá kết quả điều tra trinh sát. Pháp luật chỉ thừa nhận những chứng cứ thu thập được từ điều tra theo tố tụng. Các tên gọi Cơ quan điều tra tư pháp chuyên trách như: "Chấp pháp", "Điều tra xét hỏi" phần nào cũng nói nên các biện pháp điều tra chủ yếu của cơ quan này.

Như vậy, xét về góc độ Cơ quan tiến hành tố tụng thì việc tổ chức Cơ quan điều tra Tư pháp như trên là hoàn toàn hợp lý. Song về tổ chức và hoạt động của Cơ quan điều tra chưa được hoàn thiện, trong khi đó yêu cầu của các nước trên thế giới đòi hỏi phải pháp luật hoá các hoạt động tố tụng. Trong đó có sự phân công cụ thể của từng Cơ quan Tư pháp (tức là cần quy định chặt chẽ trong luật pháp dưới góc độ Khoa học hình sự). Trong khi đó, ở nước ta giai đoạn này quy định hoạt động về các Cơ quan Tư pháp mới chỉ dừng lại ở sắc lệnh, các nghị định... nhưng các nội dung đó không đảm bảo tính thống nhất về sự phân công thẩm quyền điều tra, các biện pháp điều tra để phát hiện, thu thập củng cố chứng cứ; quyền và nghĩa vụ của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng; người tham gia tố tụng, các biện pháp ngăn chặn và cưỡng chế thi hành... dẫn

đến trong công tác điều tra có sự chồng chéo, trùng lặp vi phạm các quyền cơ bản của công dân. Nhu vậy, hiệu quả công tác điều tra thực tế chua cao, chưa khoa học, chưa phù hợp với thực tiễn công tác đấu tranh phòng chống tội phạm ở nước ta trong giai đoạn này cũng như về lâu dài.

2. Giai đoạn từ 1988 - 2003

Trước tình hình trên, ngày 28/6/1988, Bộ luật tố tụng hình sự được Quốc hội khoá 8 thông qua, đã quy định trình tự, thủ tục khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự; Nhiệm vụ, quyền hạn và quan hệ giữa Cơ quan tiến hành tố tụng; Nhiệm vụ, quyền hạn của người tiến hành tố tụng; Quyền, nghĩa vụ của những người tham gia tố tụng, của các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và công dân, nhằm phát hiện chính xác nhanh chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội.

Dựa trên những quy định mang tính nguyên tắc của Bộ luật tố tụng hình sự về Cơ quan điều tra, ngày 04/4/1989, Hội đồng Nhà nước đã thông qua Pháp lệnh Tổ chức điều tra hĩnh sự (gồm 6 Chương và 32 Điều)', trong đó quy định Cơ quan điều tra được tổ chức trong lực lượng Cảnh sát nhân dân, An ninh nhân dân thuộc Bộ Nội vụ (nay là Bộ Công an); Tổ chức Cơ quan điều tra của lực lượng Quân đội nhân dân; và hệ thống Cơ quan điều tra của VKSND.

Hệ thống mô hình tổ chức Cơ quan điều tra gồm:

- Cấp Cục ở Trung ương; 

- Cấp Phòng ở Tỉnh, thành phố trực thuộc TW (Tổng cục, Bộ tư lệnh, Quân khu, Quân chủng và cấp tương đương thuộc Quân đội nhân dân);

- Cấp huyện có Đội Cảnh sát điều tra (Ban điều tra ở Ban chỉ huy Quân sự tỉnh và tương đương).

Đứng đầu Cơ quan điều tra là Thủ trưởng, các Phó thủ trưởng Cơ quan điều tra và Điều tra viên (Điều tra viên Sơ cấp, Trung cấp, Cao cấp).

Mô hình Cơ quan điều tra được thực hiện từ đó cho đến nay. Đứng về mặt pháp luật mà nói mô hình Cơ quan điều ha nói trên đã đáp ứng tốt các yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm trong giai đoạn này. Song với xu thế hội nhập và phát triển của nền kinh tế, văn hoá xã hội của nước ta với các nước trên thế giới đã làm cho tình hình tội phạm có diễn biến phức tạp, một số hành vi mới được coi là hành vi nguy hiểm cho xã hội; Bộ luật Hình sự năm 1999 sửa đổi có nhiều quy định mới tại phần chung như việc xác định tội danh theo tiêu chí mới; các nội dung quy định về cấu thành tội phạm, thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, hình phạt và việc áp dụng các biện pháp tư pháp hình sự; quy định về người thành niên phạm tội, phạm vi áp dụng... cũng có những thay đổi nhất định.

Trong chính nội dung quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, PLTCĐTHS cũng thể hiện nhiều điểm bất cập như: Pháp luật giao cho Cơ quan điều tra được tiến hành các biện pháp điều tra làm rõ tội phạm và người phạm tội. Trong đó chủ yếu người thực hiện là những người tiến hành tố tụng ở Cơ quan điều tra do Thủ 

trưởng, Phó thủ trưởng Cơ quan điều tra, Điều tra viên. Tuy nhiên, quyền năng pháp lý của những người này còn nhiều hạn chế bất cập gây cản trở ít nhiều cho hoạt động điều tra.

Nghị quyết Đại hội lần IX của Đảng và Nghị quyết số 08- NQ/TW ngày 02 tháng 01 năm 2002 của Bộ Chính trị về “Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới” đặt ra yêu cầu đối với tổ chức hoạt động của Cơ quan điêu tra. Trong đó VKSNDTC chỉ tổ chức Cơ quan điều tra thuộc VKSNDTC thực hiện điều tra những vụ án xâm phạm hoạt động tư pháp; Tăng thẩm quyền xét xử cho Toà án nhân dân cấp huyện được xét xử các loại tội phạm có mức án từ 15 năm tù trở xuống thì đương nhiên phải tăng thẩm quyền điều tra cho Cơ quan điều tra cấp huyện. Như vậy, đặt ra các yêu cầu hoàn thiện pháp luật TTHS về người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng, thực hiện tranh tụng tại phiên toà hình sự... với mục đích đảm bảo các quyền cơ bản của những người tham gia tố tụng hạn chế thấp nhất tình trạng oan sai xảy ra; thực hiện các yêu cầu về bồi thường bị oan do người thuộc cơ quan tiến hành tố tụng gây ra.

Trước những bất cập và tồn tại trên đòi hỏi phải hoàn thiện Bộ luật Tố tụng hình sự để đáp ứng với các quy định của BLHS năm 1999 và các yêu cầu chủ yếu của công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm trong tình hình hiện nay, khi mà các quy phạm pháp luật và xu hướng dân chủ đang dần thắt chặt đòi hỏi hệ thống vãn bản về kỹ thuật lập pháp ngày càng phải hoàn thiện, chặt chẽ, trong đó việc xây dựng phải đáp ứng được các yêu cầu đòi hỏi bức xúc hiện nay. Do đó, Bộ luật Tố tụng hình sự năm

2003 được Quốc hội thông qua về cơ bản đã xây dựng và giải đáp được những khó khăn bất cập khi áp dụng Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 trong thực tiễn.

3. Giai đoạn từ 2004 đến 2017

Từ khi có sự ban hành của Pháp lệnh Tổ chức điều tra hình sự năm 2004, Cơ quan điều tra đã được quy định cụ thể và có mô hình tổ chức rõ ràng, bao gồm: Cơ quan điều tra được thành lập ưong Công an nhân dân, ưong Quân đội nhân dân và ở Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

Trong Công an nhân dân có Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an cấp tỉnh, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an cấp huyện, Cơ quan An ninh điều tra Bộ Công an, Cơ quan An ninh điều tra Công an cấp tỉnh.

Cụ thể như sau:

- Tổ chức của Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an gồm có:

+ Cục Cảnh sát điều tra tội phạm về ưật tự xã hội;

+ Cục Cảnh sát điều tra tội phạm về tham nhũng, kinh tế và chức vụ;

+ Cục Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy;

+ Văn phòng Cơ quan Cảnh sát điều tra.

- Tổ chức của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an cấp tỉnh gồm có:

+ Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội; 

+ Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về tham nhũng, kinh tế và chức vụ;

+ Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy;

+ Văn phòng Cơ quan Cảnh sát điều tra.

- Tổ chức của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an cấp huyện gồm có:

+ Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội;

+ Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về tham nhũng và kinh tế;

+ Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy;

+ Đội Điều tra tổng hợp.

- Tổ chức của Cơ quan An ninh điều tra Bộ Công an gồm có các phòng điều tra, các phòng nghiệp vụ và Văn phòng Cơ quan An ninh điều tra;

- Tổ chúc của Cơ quan An ninh điều tra Công an cấp tỉnh gồm có các đội điều tra, đội nghiệp vụ và bộ máy giúp việc Cơ quan An ninh điều tra.

Trong Quân đội nhân dân có Cơ quan điều tra hình sự Bộ Quốc phòng, Cơ quan điều tra hình sự quân khu và tương đương, Cơ quan điều tra hình sự khu vực, Cơ quan An ninh điều tra Bộ Quốc phòng, Cơ quan An ninh điều tra quân khu và tương đương.

Trong Viện kiểm sát nhân dân tối cao có Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Cơ quan điều tra Viện kiểm sát quân sự Trung ương. 

4. Từ 1/1/2018 đến nay

Kế thừa những ưu điểm của Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự năm 2004, Luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự năm 2015 (có hiệu lực thi hành từ 1/1/2018) tiếp tục quy định cụ thể về mô hình tổ chức Cơ quan điều tra, theo đó Cơ quan điều tra được thành lập trong Công an nhân dân, trong Quân đội nhân dân và ở Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

Trong Công an nhân dân có Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an cấp tỉnh, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an cấp huyện, Cơ quan An ninh điều tra Bộ Công an, Cơ quan An ninh điều tra Công an cấp tỉnh.

Cụ thể như sau:

- Tổ chức của Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an gồm có:

+ Văn phòng Cơ quan Cảnh sát điều tra.

+ Cục Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội (gọi tắt là Cục Cảnh sát hình sự);

+ Cục Cảnh sát điều tra tội phạm về tham nhũng, kinh tế và chức vụ;

+ Cục Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy;

- Tổ chức của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an cấp tỉnh gồm có:

+ Văn phòng Cơ quan Cảnh sát điều tra;

+ Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội (gọi tắt là Phòng Cảnh sát hình sự);

+ Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về tham nhũng, kinh tế và chức vụ;

+ Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy.

- Tổ chức của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an cấp huyện gồm có:

+ Đội Điều tra tổng hợp

+ Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội (gọi tắt là Đội Cảnh sát hình sự);

+ Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về tham nhũng và kinh tế;

+ Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy;

- Tổ chức của Cơ quan An ninh điều tra Bộ Công an gồm có các phòng điều tra, các phòng nghiệp vụ và Vãn phòng Cơ quan An ninh điều tra;

- Tổ chức của Cơ quan An ninh điều tra Công an cấp tỉnh gồm có các đội điều tra, đội nghiệp vụ và bộ máy giúp việc Cơ quan An ninh điều tra.

Trong Quân đội nhân dân có Cơ quan An ninh điều tra trong Quân đội nhân dân và Cơ quan điều tra hình sự trong Quân đội nhân dân, trong đó:

- Cơ quan An ninh điều tra trong Quân đội nhân dân chia làm 2 cấp:

+ Cơ quan An ninh điều tra Bộ Quốc phòng gồm các phòng điều tra, phòng nghiệp vụ và bộ máy giúp việc. 

+ Cơ quan An ninh điều tra quân khu và tương đương gồm có các Ban điều tra và bộ máy giúp việc

- Cơ quan điều tra hình sự trong Quân đội nhân dân gồm 3 cấp:

+ Cơ quan điều tra hình sự Bộ Quốc phòng gồm có các phòng điều tra, phòng nghiệp vụ và bộ máy giúp việc.

+ Cơ quan điều tra hình sự quân khu và tương đương gồm có Ban điều tra và bộ máy giúp việc.

+ Cơ quan điều tra hình sự khu vực gồm có bộ phận điều tra và bộ máy giúp việc.

Trong Viện kiểm sát nhân dân tối cao có Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Cơ quan điều tra Viện kiểm sát quân sự Trung ương, trong đó:

- Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao gồm có các phòng điều tra và bộ máy giúp việc.

Cơ quan điều tra Viện kiểm sát quân sự trung ương gồm có Ban điều tra và bộ phận giúp việc.

Mọi vướng mắc pháp lý về tố tụng hình sự, Hãy gọi ngay: 1900.6162 để được luật sư tư vấn pháp luật hình sự trực tuyến.

Trân trọng./.

Bộ phận tư vấn pháp luật hình sự - Công ty luật Minh Khuê (biên tập)