1. Tìm hiểu về luật tổ chức tòa án nhân dân trước kia

Luật tổ chức Toà án nhân dân được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam Khoá X, kì họp thứ 11 thông qua ngày 02. 4.2002, được Chủ tịch nước kí lệnh công bố ngày 12.4.2002, thay thế Luật tố chức Toà án nhân dân năm 1992, được sửa đổi, bổ sung vào năm 1993 và năm 4995. Đối tượng và phạm vi điều chỉnh của Luật là tổ chức và hoạt động của hệ thống Toà án nhân dân nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, bao gồm: Toà án nhân dân tối cao; các Toà án dân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; các Toà án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; các Toà án quân sự, các Toà án khác do luật định. Toà án thực hiện việc xét xử những vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động, kinh tế, hành chính và giải quyết những việc khác theo quy định của pháp luật. Trong phạm vi chức năng của mình, Toà án có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa; bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân; bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể; bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh dư và nhân phẩm của công dân. Chế độ bổ nhiêm Thẩm phán được thực hiện đối với hệ thống Toà án các nêm Chế độ bầu Hội thẩm nhân dân được thực hiện đối với các Toà án nhân dân địa phương. Chế độ cữ Hội thẩm quân nhân được thực hiện đối với các Toà án quân sự quân khu và tương đương, các Toà án quân sự khu vực. Việc xét xử ở Toà án có các Hội thẩm tham gia theo quy định của pháp luật tố lưHg: Khi xét xử, Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán, đồng thời, Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập, chỉ tuân theo pháp luật.

Sau khi Hiến pháp năm 1992 - Hiến pháp của thời kì đổi mới ra đời, Luật tố chức Toà án nhân dân năm 1992 cũng được ban hành làm cơ sở để bảo đảm cho hệ thống Toà án nhân dân hoạt động hiệu quả, đáp ứng các yêu cầu của quá trình đổi mới. Luật này cũng đã được sửa đổi, bổ sung vào các năm 1993 và 1995. Sau 10 năm phát huy hiệu lực, góp phần đáng kể vào việc đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống Toà án nhân dân, trước yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Ở Việt Nam, Luật năm 1992 cần được thay thế bằng một luật tổ chức Toà án nhân dân mới, trong đó vấn đề cần được quan tâm là công tác quản lí Toà ân địa phương, Toà án quân sự về mặt tổ chức; cơ cấu và hoạt động của Toà án nhân dân tối cao; thẩm quyền của Toà án các cấp, đặc biệt là thẩm quyền của Toà án nhân dân cấp huyện...

Luật tổ chức Toà án nhân dân năm 2002 có 7 : chương với 48 điều. Chương - Những quy định chung, gồm 17 điều, quy định chức năng, nhiệm vụ của các Toà án, bao gồm: Toà án nhân dân tối cao, các Toà án nhân dân địa phương, các Toà án quân sự và các Toà án khác do luật định là các cơ quan xét xử của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đồng thời, quy định về chế độ bổ nhiệm Thẩm phán Toà án các cấp, chế độ bầu Hội thẩm nhân dân và Hội thẩm quân nhân; về nguyên tắc xét xử, chế độ xét xử, các nguyên tắc phối hợp trong xét xử và phòng ngừa tội phạm; nguyên tắc quản lí và phối hợp quản lí các Toà án nhân dân địa phương và các Toà án quân sự về mặt tổ chức... Chương IÌ, quy định về tổ chức và hoạt động của Toà án nhân dân tối cao, gồm 9 điều, xác định Toà án nhân dân tối cao là cơ quan xét xử cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam; nêu rõ cơ cấu, nhiệm vụ, quyền hạn và thẩm quyền xét xử của Toà án nhân dân tối cao; cơ cấu, nhiệm vụ, quyền hạn và thẩm quyền của Hội đồng Thẩm phán và các toà chuyên trách, Toà phúc thẩm thuộc Toà án nhân dân tối cao; nhiệm vụ và quyền hạn của Chánh án, Phó Chánh án Toà án nhân dân tối cao... Chương IIl, quy định về tổ chức và hoạt động của Toà án nhân dân địa phương, gồm 2 mục với 7 điều: Mục A, gồm 5 điều, quy định cơ cấu tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn và thẩm quyền của các Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; cơ cấu tổ chức, nhiệm vụ và quyền hạn của Uỷ ban Thẩm phán, các Toà chuyên trách thuộc Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; nhiệm vụ và quyền hạn của Chánh án, Phó Chánh án Toà án nhân dân cấp tỉnh; Mục B, gồm 2 điều, quy định cơ cấu tổ chức, thẩm quyền của Toà án nhân dân cấp huyện. Chương IV, gồm 3 điều, quy định về cơ cấu tổ chức các Toà án quân sự. Tổ chức và hoạt động của các toà án quân sự do Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định. Chương V, quy định về Thẩm phán và Hội thẩm, gồm 7 điều, quy định về tiêu chuẩn, điều kiện để được tuyển chọn và bổ nhiệm Thẩm phán, bầu hoặc cử làm Hội thẩm; các quy định về quyền và nghĩa vụ của Thẩm phán và Hội thẩm; thời hạn nhiệm kì của Thẩm phán và Hội thẩm; thời hạn nhiệm kì của Thẩm phán, các chức danh Chánh án, Phó Chánh án Toà án các cấp; nhiệm kì của Hội thẩm nhân dân và Hội thẩm quân nhân... Chương VI, quy định về những bảo đảm hoạt động của Toà án, gồm 4 điều, các quy định về chế độ tiền lương, phụ cấp, tổng biên chế, kinh phí hoạt động, sự phối hợp của lực lượng công an và cảnh vệ trong quân đội về việc dẫn giải bị cáo và báo vệ phiên toà. Chương VII - Điều khoản thi hành.

Luật tổ chức Toà án nhân dân năm 2002 là cơ sở pháp lí vững chắc để ngành Toà án kiện toàn về cơ cấu tổ chức và nâng cao hiệu quả hoạt động, đáp ứng các yêu cầu của công cuộc đổi mới, cải cách tư pháp, cải cách hành chính, tiến tới xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.

Trong các nhà nước hiện đại bao giờ cũng có các cơ quan nhà nước được trao quyền phân xử các tranh chấp trong xã hội. Ở Việt Nam, các cơ quan nhà nước đó lập thành hệ thống gọi là “Tòa án nhân dân”. Chương này giới thiệu tới sinh viên những vấn đề cơ bản, nền tảng về vị trí, chức năng, nhiệm vụ quyền hạn của tòa án nhân dân; vai trò của tòa án nhân dân; các nguyên tắc hiến định về tổ chức, hoạt động của hệ thống tòa án nhân dân; cơ cấu tổ chức của hệ thống tòa án nhân dân; thẩm phán và hội thẩm nhân dân.

2. Tòa án nhân dân là gì?

Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp.

Nhà nước đã ban hành ra pháp luật thì phải có cơ chế để đảm bảo cho pháp luật được thực thi, bởi lẽ pháp luật sẽ trở nên vô nghĩa, nếu nó không được các giai cấp và tầng lớp khác tuân theo, pháp luật không đi vào đời sống hàng ngày của dân cư. Mặt khác trong bất cứ xã hội nào, luôn luôn có các cá nhân, tổ chức hoặc giai cấp đối lập tìm mọi cách để làm trái các điều luật của nhà nước, đi ngược lại với lợi ích của giai cấp thống trị. Do vậy giai cấp thống trị đã tổ chức ra một hệ thống các cơ quan chuyên làm nhiệm vụ bảo vệ và bảo đảm cho pháp luật được thực thi như quân đội, cảnh sát…

Nhưng không thể sử dụng đội quân này có thể bắt bớ, giam cầm một cách tùy tiện, bởi như thế sẽ tạo nên sự hỗn loạn trong xã hội. Bởi lẽ đó cần có một cơ quan được lập ra để đảm nhiệm chức năng xét xử, xem xét hành vi nào là đúng, là sai. Cơ quan đó chính là tòa án, luôn tồn tại trong bất kỳ chế độ nhà nước nào.

Tòa án là biểu hiện tập trung của quyền tư pháp, là cơ quan thực hiện chức năng xét xử. Ngay từ buổi đầu của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, tòa án đã chiếm một vị trí và vai trò hết sức quan trọng trong việc xét xử những hành vi vi phạm pháp luật, chống phá nhà nước ta. Cùng với quá trình phát triển của cách mạng, ở mỗi một giai đoạn khác nhau, do những yêu cầu đặt ra khác nhau, tổ chức, họat động của tòa án nhân dân cũng có những nhiệm vụ và mục tiêu khác nhau.

Tuy nhiên nó cũng chiếm một vị trí và vai trò hết sức quan trọng, “…là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam…. Trong phạm vi chức năng của mình có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân ; bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể, bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân…

3. Vị trí, chức năng của tòa án nhân dân

3.1 Tòa án - hệ thống cơ quan riêng biệt thực hiện chức năng xét xử

Các tòa án nhân dân của Việt Nam (sau đây gọi là “tòa án”) lập thành hệ thống tòa án nhân dân. về mặt tổ chức, hệ thống tòa án là hệ thống cơ quan riêng biệt trong bộ máy nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Trong sơ đồ tổ chức của bộ máy nhà nước Việt Nam, hệ thống tòa án hiện diện song song với các hệ thống cơ quan nhà nước khác như hệ thống cơ quan đại diện, hệ thống cơ quan hành chính nhà nước và hệ thống cơ quan kiểm sát nhân dân.

Công việc chính của tòa án là xét xử các tranh chấp trong xã hội. Nếu như Quốc hội và các cơ quan nhà nước khác như Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ... ban hành các quy phạm pháp luật có hiệu lực áp dụng chung thì tòa án, thông qua hoạt động xét xử, cho thấy pháp luật là gì trong những trường hợp tranh chấp cụ thể trong đời sống. Tòa án là cơ chế do Nhà nước cung cấp để giải quyết các tranh chấp trong xã hội một cách hòa bình và văn minh, ưánh tình trạng các bên tranh chấp “tự xử” mâu thuẫn của mình mà gây ra tình trạng rối loạn trong xã hội. Đây chính là quyền tư pháp của Nhà nước, được trao cho tòa án thực hiện theo quy định tại Điều 102 Hiến pháp năm 2013. “Xét xử các tranh chấp” có nghĩa là phân xử ai đúng, ai sai tới đâu trong tranh chấp đó từ góc độ pháp lý và chế tài pháp lý đối với cái sai là gì. Một quyết định mang tính tư pháp - xét xử của tòa án thường trải qua các công đoạn: (1) các bên trong vụ tranh chấp trình bày về vụ việc của mình với tòa án; (2) tòa án xác định nội dung của tranh chấp thông qua các chứng cứ; (3) nếu vấn đề có liên quan tới luật áp dụng thì xác định luật áp dụng và xem xét lập luận của các bên về luật áp dụng; (4) tòa án phân tích áp dụng pháp luật vào tình huống cụ thể của tranh chấp và ra phán quyết. Do quyền tư pháp là của Nhà nước nên quyết định phán xử của tòa án là quyết định giải quyết cuối cùng, có giá trị ràng buộc và bảo đảm thực hiện bằng cưỡng chế nhà nước. Đó là lý do tại sao Nhà nước hình thành một hệ thống cơ quan thi hành án dân sự và hình sự để bảo đảm thực hiện phán quyết của tòa án. Các bên tranh chấp, bao gồm cả cơ quan nhà nước, phải tuyệt đối tôn trọng và tuân thủ phán quyết của tòa án.

Vị trí của Tòa án là hệ thống cơ quan riêng biệt thực hiện chức năng xét xử của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.

Như vậy, tòa án là hệ thống cơ quan riêng biệt trong tổ chức bộ máy nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, được giao quyền lực nhà nước thực hiện chức năng xét xử các tranh chấp trong xã hội, hay còn gọi là chức năng thực hiện quyền tư pháp. Chức năng tư pháp - xét xử của tòa án được thể hiện ở hai phương diện.

Tòa án là cơ quan xét xử chuyên nghiệp của Nhà nước.

Thứ nhất, ưong bộ máy nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam hiện nay, chức năng tư pháp chỉ được trao cho tòa án, cũng giống như chức năng lập pháp chỉ được trao cho Quốc hội và chức năng hành pháp được trao cho

Chính phủ. Nói cách khác, quyền phán xử của Nhà nước đối với các tranh chấp trong xã hội chỉ được trao cho tòa án. Phán quyết của tòa án mang tính quyền lực nhà nước và có giá trị bắt buộc thi hành, ngay cả đối với các cơ quan nhà nước (Như quy định tại đoạn 2 khoản 2 Điều 2 Luật tổ chức tòa án nhân dân năm 2014: “Bản án, quyết định của Tòa án nhân dân có hiệu lực pháp luật phải được cơ quan, tổ chức, cả nhân tôn trọng; cơ quan, tổ chức, cả nhân hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành”).

Chức năng của Tòa án là xét xử - thực hiện quyền tư pháp.

Trong thực tiễn, vẫn còn hiện tượng người dân có thói quen đem tranh chấp của mình tới “nhờ” các cơ quan hành chính nhà nước giải quyết, ví dụ tranh chấp giữa người mua căn hộ chung cư và chủ đầu tư được đưa tới Thanh tra xây dựng; tranh chấp về đất đai được đưa ra ủy ban nhân dân xã... Tuy nhiên đây chỉ là thói quen do các cơ quan hành chính nhà nước thường là cơ quan sát dân nhất; cơ quan thực sự có chức năng giải quyết những tranh chấp như vậy là tòa án chứ không phải các cơ quan hành chính nhà nước.

Ngược lại, trong bộ máy nhà nước, một số cơ quan hành chính nhà nước thực hiện một số công việc tương tự hoạt động tư pháp, ví dụ cơ quan hành chính nhà nước cấp trên giải quyết khiếu nại hành chính đối với cơ quan hành chính cấp dưới... Việc trao các công việc mang tính chất tư pháp cho các cơ quan hành chính nhà nước xử lý, về mặt lý luận, là không thực sự phù hợp bởi cơ quan hành chính nhà nước có nguyên tắc vận hành khác với với quan tư pháp, từ đó có thể dẫn tới kết quả giải quyết tùy tiện, không thực Sự thuyết phục đối với người dân. Vì vậy, trong trường hợp tiếp tục phát sinh tranh chấp, tức là người dân không đồng ý với cách giải quyết của các cơ quan hành chính nhà nước, tòa án có thẩm quyền giải quyết cuối cùng đối với các tranh chấp đó.

Thứ hai, tòa án là cơ quan xét xử chuyên nghiệp. Thẩm quyền xét xử của tòa án hiện nay bao gồm các vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động, hành chính. Trong vụ án hình sự, một bên là Nhà nước, được đại diện bởi viện kiểm sát nhân dân, cáo buộc một hoặc một số chủ thể nào đó phạm tội hình sự; phía bên kia là người bị cáo buộc và luật sư của họ. Trong vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động, các chủ thể mang tính chất tư, có thể là cá nhân hoặc tổ chức có tranh chấp với một chủ thể tư khác đã xâm hại quyền hay lợi ích hợp pháp của mình. Trong vụ án hành chính, một chủ thể tư, có thể là người dân hoặc doanh nghiệp, khởi kiện một cơ quan hành chính nhà nước vì đã vi phạm pháp luật khi thực hiện các hành vi quản lý hành chính và do đó ảnh hưởng tới quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Như vậy, hệ thống tòa án hiện nay có thẩm quyền xét xử hầu hết các loại tranh chấp trong xã hội từ các tranh chấp giữa các chủ thể tư với nhau, tới các vụ khởi kiện cơ quan hành chính nhà nước và các vụ án hình sự. Chỉ có một số ít các tranh chấp không thuộc thẩm quyền xét xử của tòa án, ví dụ tranh chấp về tính hợp hiến, hợp pháp của các văn bản quy phạm pháp luật.

Cũng cần lưu ý rằng, ngoài chức năng xét xử các hanh chấp, tòa án còn giải quyết một số việc dân sự theo quy định của pháp luật, ví dụ tuyên bố một người đã chết, mất tích, xác định một người mất năng lực hành vi dân sự ...Tuy nhiên, các việc này không phải công việc chính của tòa án. Chức năng, tức là lĩnh vực hoạt động chủ yếu của tòa án, vẫn là xét xử.

Ngoài tòa án, ở Việt Nam hiện nay, cũng như các nhà nước hiện đại khác, có một số cơ quan có hoạt động xét xử chuyên nghiệp, ví dụ: Trung tâm trọng tài quốc tế (VIAC) bên cạnh Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam hay các trung tâm trọng tài thành lập theo pháp luật về trọng tài thương mại. Hoạt động của các trung tâm này có nhiều điểm tương đồng với hoạt động xét xử của tòa án. Tuy nhiên, các trung tâm trọng tài không phải là cơ quan nhà nước. Mặc dù có hoạt động xét xử, song các trung tâm này không thực quyền tư pháp bởi các hoạt động xét xử đó không phải là chức năng mà nhà nước trao cho họ. Đây là các thiết chế mang tính chất tư nhân để giải quyết các tranh chấp thương mại giữa các doanh nghiệp trong nước và quốc tế. Khác với tính bắt buộc dựa trên quyền lực nhà nước của tòa án, tính ràng buộc của phán quyết mà các thiết chế trọng tài này đưa ra về cơ bản dựa trên sự tự nguyện thực hiện của các bên. Đe có hiệu lực bắt buộc mang tính pháp lý, các phán quyết đó phải thông qua thủ tục công nhận và cho thi hành tại tòa án có thẩm quyền của Việt Nam.

Có quan điểm cho rằng quyền tư pháp mà tòa án thực hiện là quyền bảo vệ pháp luật. Quan điểm này không sai, tuy nhiên chưa toàn diện. Như đã đề cập, quyền tư pháp là quyền của nhà nước xét xử mọi tranh chấp nảy sinh trên lãnh thổ quốc gia mình. Quyền tư pháp của nhà nước xuất phát từ nguyên tắc người dân không được tự giải quyết các hanh chấp, xung đột của mình mà phải qua cơ chế nhà nước phân xử một cách hòa bình và văn minh. Trong xã hội hiện đại, hầu như mọi lĩnh vực trong xã hội đều được điều chỉnh bởi pháp luật thực định do các cơ quan có thẩm quyền ban hành. Do vậy, hầu như các tranh chấp đều phát sinh từ các mối quan hệ xã hội do pháp luật điều chỉnh và có liên quan tới vi phạm pháp luật. Khi xử án, tòa án sẽ căn cứ vào pháp luật thực định hoặc hợp đồng đã giao kết giữa các bên để tiến hành xét xử. Trong trường hợp quan hệ phát sinh tranh chấp chưa được điều chỉnh bởi pháp luật thực định thì tòa án vẫn tiến hành xét xử theo tập quán hoặc theo lẽ công bằng. Như vậy, chỉ khi nào hiểu pháp luật ở nghĩa rộng nhất, tức là bao gồm cả pháp luật thực định, họp đồng giao kết giữa các bên, tập quán và lẽ công bằng thì quyền tư pháp mới đồng nghĩa với quyền bảo vệ pháp luật.

Trong lịch sử lập hiến Việt Nam, Hiến pháp năm 2013 là bản hiến pháp đầu tiên quy định rõ tòa án là cơ quan thực hiện quyền tư pháp.1 Trong các bản hiến pháp trước hoặc chưa quy định rõ ràng (Khoản 1 Điều 102 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Tòa án nhãn dãn là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp ”; Điều 63 Hiến pháp năm 1946) hoặc chỉ quy định tòa án là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (Điều 97 Hiến pháp năm 1959; Điều 128 Hiến pháp năm 1980; Điều 127 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001)). Như đề cập trên đây, về mặt bản chất, quyền tư pháp chính là quyền xét xử của nhà nước đối với các tranh chấp. Tuy nhiên, khi Hiến pháp năm 2013 quy định “tòa án thực hiện quyền tư pháp” thì có nghĩa là địa vị của tòa án trong bộ máy nhà nước Việt Nam đã được nâng lên một bậc. Nếu chỉ quy định “tòa án là cơ quan xét xử” thì chỉ chú trọng tới khía cạnh hoạt động của tòa án. Tòa án được giao xét xử hình sự hay dân sự mà không phải là tất cả các loại tranh chấp trong xã hội thì vẫn được gọi là cơ quan xét xử. Nếu quy định “tòa án thực hiện quyền tư pháp” thì có nghĩa tòa án là cơ quan phụ trách việc thực hiện một trong ba nhánh quyền lực nhà nước - quyền tư pháp - quyền phán xử của nhà nước đối với mọi tranh chấp trong xã hội. Thực hiện quyền tư pháp, tòa án có quyền phán xử hoặc phán xử cuối cùng đối với mọi tranh chấp trong xã hội.

3.2 Tòa án - cơ quan trung tâm của hoạt động tư pháp

Như hên đã đề cập, quyền tư pháp là quyền của nhà nước phán xử các loại tranh chấp trong xã hội. Tòa án thực hiện chức năng xét xử cũng chính là thực hiện quyền tư pháp. Tuy nhiên, để quyền này được thực hiện thì không chỉ có hoạt động xét xử của tòa án mà phải có sự tham gia của nhiều hoạt động của các cơ quan khác. Cơ quan điều tra tiến hành các hoạt động làm rõ tình tiết của vụ việc có dấu hiệu hình sự. Cơ quan kiểm sát thực hiện quyền đại diện nhà nước buộc tội một ai đó trước tòa án đồng thời kiểm sát bảo đảm tuân thủ pháp luật đối với hoạt động tư pháp. Luật sư thực hiện quyền đại diện cho các bên tranh chấp và bào chữa trong các vụ án hình sự. Cơ quan thi hành án dân sự, cơ quan thi hành án hình sự bảo đảm thi hành các bản án đã có hiệu lực của tòa án. Các hoạt động này, mặc dù không trực tiếp thực hiện quyền tư pháp, song đều có thể được gọi là các hoạt động tư pháp bởi chúng đều đóng góp vào quá trình thực hiện quyền tư pháp của tòa án.

Trong tổng thể các hoạt động tư pháp, hoạt động xét xử của tòa án luôn đóng vai trò trọng tâm. Các hoạt động tư pháp khác kể trên đây đều có vai trò tham gia vào quá trình thực hiện quyền xét xử của tòa án. Hoạt động điều tra, công tố, bào chữa đều hướng tới hoạt động xét xử và diễn ra trước hoặc trong quá trình xét xử. Kết quả của các hoạt động này được trình bày trong quá trình xét xử. Hoạt động thi hành án diễn ra sau quá trình xét xử và nhằm mục đích thực thi phán quyết của tòa án. Như vậy, các hoạt động tư pháp đều xoay quanh hoạt động xét xử và tòa án giữ vị trí trung tâm trong các hoạt động tư pháp. Điều đó có nghĩa là cách thức hoạt động của tòa án quyết định cách thức hoạt động của tổng thể hoạt động tư pháp của quốc gia. Mọi thay đổi, hay cải cách quan trọng trong lĩnh vực tư pháp của quốc gia phải lấy tòa án làm trung tâm.\

4. Chức năng, nhiệm vụ của Tòa án được quy định như sau:

- Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.

Bằng hoạt động của mình, Tòa án góp phần giáo dục công dân trung thành với Tổ quốc, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, tôn trọng những quy tắc của cuộc sống xã hội, ý thức đấu tranh phòng, chống tội phạm, các vi phạm pháp luật khác.

- Tòa án nhân danh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam xét xử các vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động, hành chính và giải quyết các việc khác theo quy định của pháp luật; xem xét đầy đủ, khách quan, toàn diện các tài liệu, chứng cứ đã được thu thập trong quá trình tố tụng; căn cứ vào kết quả tranh tụng ra bản án, quyết định việc có tội hoặc không có tội, áp dụng hoặc không áp dụng hình phạt, biện pháp tư pháp, quyết định về quyền và nghĩa vụ về tài sản, quyền nhân thân.

Bản án, quyết định của Tòa án nhân dân có hiệu lực pháp luật phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành.

- Tòa án xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ để giải quyết các vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động, hành chính và thực hiện các quyền hạn khác theo quy định của luật tố tụng.

- Xử lý vi phạm hành chính; xem xét đề nghị của cơ quan quản lý nhà nước và quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính liên quan đến quyền con người, quyền cơ bản của công dân theo quy định của pháp luật.

- Ra quyết định thi hành bản án hình sự, hoãn chấp hành hình phạt tù, tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù, giảm hoặc miễn chấp hành hình phạt, xóa án tích, miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án đối với khoản thu nộp ngân sách nhà nước; thực hiện các quyền hạn khác theo quy định của Bộ luật hình sự, Luật thi hành án hình sự,Luật thi hành án dân sự.

5. Quyền hạn của Tòa án nhân dân

Khi thực hiện nhiệm vụ xét xử vụ án hình sự, Tòa án có quyền:

a) Xem xét, kết luận về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên, Luật sư trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử; xem xét việc áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn; đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án;

b) Xem xét, kết luận về tính hợp pháp của các chứng cứ, tài liệu do Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên thu thập; do Luật sư, bị can, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác cung cấp;

c) Khi xét thấy cần thiết, trả hồ sơ yêu cầu Viện kiểm sát điều tra bổ sung; yêu cầu Viện kiểm sát bổ sung tài liệu, chứng cứ hoặc Tòa án kiểm tra, xác minh, thu thập, bổ sung chứng cứ theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự;

d) Yêu cầu Điều tra viên, Kiểm sát viên và những người khác trình bày về các vấn đề có liên quan đến vụ án tại phiên tòa; khởi tố vụ án hình sự nếu phát hiện có việc bỏ lọt tội phạm;

e) Ra quyết định để thực hiện các quyền hạn khác theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

Luật Minh Khuê (sưu tầm & biên tập)