Mục lục bài viết
- 1. Khái niệm, chức năng của Ngân hàng thương mại
- 1.1 Khái niệm Ngân hàng thương mại
- 1.2 Chức năng ngân hàng thương mại
- 1.2.1 Chức năng trung gian tín dụng
- 1.2.2 Chức năng trung gian thanh toán
- 1.2.3 Chức năng tạo tiền
- 1.2.4 Các hoạt động cơ bản của Ngân hàng thương mại
- 2. Hoạt động cho vay khách hàng cá nhân tại Ngân hàng thương mại
- 2.1 Khái niệm và đặc điểm về cho vay khách hàng cá nhân
- 2.2 Đặc điểm cho vay khách hàng cá nhân
- 2.3 Phân loại cho vay khách hàng cá nhân
- 2.4 Vai trò khách hàng cá nhân
1. Khái niệm, chức năng của Ngân hàng thương mại
1.1 Khái niệm Ngân hàng thương mại
Theo điều 20 Luật các Tổ chức tín dụng năm 2010
“ Ngân hàng thương mại là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện tất cả các hoạt động Ngân hàng như nhận tiền gửi và sử dụng tiền gửi để cung cấp tín dụng, cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản và các hoạt động kinh doanh khác theo quy định của Luật này nhằm mục tiêu lợi nhuận”
Như vậy, có thể đưa ra một khái niệm chung về Ngân hàng thương mại như sau: Ngân hàng thương mại là một trong những định chế tài chính, cung cấp các dịch vụ tài chính đa dạng, với nghiệp vụ cơ bản là nhận tiền gửi, cho vay và cung ứng các các dịch vụ thanh toán. Ngoài ra, Ngân hàng còn cung cấp nhiều dịch vụ khác nhằm thỏa mãn tối đa nhu cầu về dịch vụ Ngân hàng xã hội.
1.2 Chức năng ngân hàng thương mại
1.2.1 Chức năng trung gian tín dụng
Chức năng trung gian tín dụng được xem là chức năng quan trọng nhất của Ngân hàng thương mại. Khi thực hiện chức năng trung gian tín dụng, NHTM đóng vai trò là cầu nối giữa người thừa vốn và người có nhu cầu về vốn. Với chức năng này, Ngân hàng thương mại vừa đóng vai trò nhận tiền gửi, vừa đóng vai trò là người cho vay và hưởng lợi nhuận là khoản chênh lệch giữa lãi suất nhận gửi và lãi suất cho vay và góp
phần tạo lợi ích cho tất cả các bên tham gia: người gửi tiền và người đi vay... Cho vay luôn là hoạt động quan trọng nhất của Ngân hàng thương mại, nó mang đến lợi nhuận lớn nhất cho Ngân hàng thương mại.
1.2.2 Chức năng trung gian thanh toán
Ở đây NHTM đóng vai trò là thủ quỹ cho các doanh nghiệp và cá nhân, thực hiện các thanh toán theo yêu cầu của khách hàng như trích tiền từ tài khoản tiền gửi của họ để thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ hoặc nhập vào tài khoản tiền gửi của khách hàng tiền thu bán hàng và các khoản thu khác theo lệnh của họ.
Các NHTM cung cấp cho khách hàng nhiều phương tiện thanh toán tiện lợi như séc, ủy nhiệm chi, ủy nhiệm thu, thẻ rút tiền, thẻ thanh toán, thẻ tín dụng… Tùy theo nhu cầu, khách hàng có thể chọn cho mình phương thức thanh toán phù hợp. Nhờ đó mà các chủ thể kinh tế không phải giữ tiền trong túi, mang theo tiền để gặp chủ nợ, gặp người phải thanh toán dù ở gần hay xa mà họ có thể sử dụng một phương thức nào đó để thực hiện các khoản thanh toán. Do vậy các chủ thể kinh tế sẽ tiết kiệm được rất nhiều chi phí, thời gian, lại đảm bảo thanh toán an toàn. Chức năng này vô hình trung đã thúc đẩy lưu thông hàng hóa, đẩy nhanh tốc độ thanh toán, tốc độ lưu chuyển vốn, từ đó góp phần phát triển kinh tế.
1.2.3 Chức năng tạo tiền
Tạo tiền là một chức năng quan trọng, phản ánh rõ bản chất của NHTM. Với mục tiêu là tìm kiếm lợi nhuận như là một yêu cầu chính cho sự tồn tại và phát triển của mình, các NHTM với nghiệp vụ kinh doanh mang tính đặc thù của mình đã vô hình trung thực hiện chức năng tạo tiền cho nền kinh tế.
Chức năng tạo tiền được thực thi trên cơ sở hai chức năng khác của NHTM là chức năng tín dụng và chức năng thanh toán. Thông qua chức năng trung gian tín dụng, Ngân hàng sử dụng số vốn huy động được để cho vay, số tiền cho vay ra lại được khách hàng sử dụng để mua hàng hóa, thanh toán dịch vụ trong khi số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng vẫn được coi là một bộ phận của tiền giao dịch, được họ sử dụng để mua hàng hóa, thanh toán dịch vụ… Với chức năng này, hệ thống NHTM đã làm tăng tổng phương tiện thanh toán trong nền kinh tế, đáp ứng nhu cầu thanh toán, chi trả của xã hội. Ngân hàng thương mại tạo tiền phụ thuộc vào tỉ lệ dự trữ bắt buộc của ngân hàng trung ương đã áp dụng đối với NHTM, do vậy Ngân hàng trung ương có thể tăng tỉ lệ này khi lượng cung tiền vào nền kinh tế lớn.
1.2.4 Các hoạt động cơ bản của Ngân hàng thương mại
Huy động vốn
Huy động vốn là hoạt động đầu tiên và có vai trò vô cùng quan trọng đối với một Ngân hàng thương mại bởi nguồn vốn tự có của Ngân hàng không thể đáp ứng tất cả các hoạt động của Ngân hàng. Để có thể thực hiện các nghiệp vụ khác, Ngân hàng phải đảm bảo được nguồn vốn huy động của mình một cách hợp lý và hiệu quả, phù hợp với việc sử dụng vốn của Ngân hàng.
Các hình thức huy động vốn: nhận tiền gửi cá nhân và tổ chức tín dụng trong và ngoài nước, phát hành trái phiếu tiền gửi, giấy tờ có giá; đi vay từ các tổ chức tài chính khác
Hoạt động cho vay
Hoạt động cơ bản của NHTM và cũng là hoạt động mang lại lợi nhuận chủ yếu cho Ngân hàng. Ngân hàng sử dụng đã huy động để cho các đối tượng, tổ chức cá nhân có nhu cầu sản xuất kinh doanh, tiêu dùng cá nhân vay với những điều kiện nhất định mà hai bên đã thỏa thuận. Các hình thức Ngân hàng “tài trợ cho nền kinh tế”:
Chiết khấu thương phiếu: là một hình thức tín dụng ngắn hạn của Ngân hàng thương mại được thực hiện dưới hình thức khách hàng sẽ chuyển nhượng quyền sở hữu thương phiếu chưa đến hạn thanh toán cho Ngân hàng để nhận một khoản tiền thấp hơn mệnh giá của thương phiếu.
Cho vay: Đây là hoạt động quan trọng và chiếm tỷ trọng lớn nhất trong các hoạt động cấp cho vay của Ngân hàng thương mại. Ngân hàng thương mại có thể cho các cá nhân, tổ chức vay vốn dưới nhiều hình thức như thấu chi, chi vay theo hạn mức hoặc vay theo từng lần,…
Bảo lãnh hoặc tái bảo lãnh: Bảo lãnh Ngân hàng là sự cam kết của Ngân hàng với bên có quyền (bên nhận bảo lãnh) về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng (bên được bảo lãnh) khi khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đã cam kết với bên nhận bảo lãnh. Khách hàng phải nhận nợ và hoàn trả cho tổ chức tín dụng số tiền đã được trả thay.
Cho thuê tài sản (thuê-mua): Cho thuê tài sản của Ngân hàng thương mại là hình thức cho vay trung và dài hạn. Cho thuê tài sản giống một khoản cho vay thông thường ở chỗ Ngân hàng sẽ xuất tiền với kì vọng thu về cả gốc và lãi sau một thời gian nhất định, tuy nhiên nó khác cho vay ở chỗ tài sản cho thuê vẫn thuộc sở hữu của Ngân hàng. Ngân hàng có thể thu hồi nếu bên thuê không thực hiện đúng hợp đồng…
Hoạt động cung cấp dịch vụ
Ngân hàng cung cấp cho khách hàng một loạt các dịch vụ liên quan và sẽ nhận được doanh thu dưới dạng hoa hồng. Công nghệ ngày càng phát triển, các dịch vụ ngày càng đa dạng, doanh thu của Ngân hàng ngày càng cao. Các dịch vụ bao gồm:
Dịch vụ thanh toán bao gồm: dịch vụ thanh toán trong nước, thanh toán quốc tế, dịch vụ thẻ, dịch vụ Ngân hàng điện tử.
Dịch vụ ủy thác bao gồm: thực hiện ủy thác và nhận ủy thác. Trên thực tế, dịch vụ nhận ủy thác là việc mang lại lợi nhuận cho Ngân hàng thông qua việc thu phí. Do đặc trưng là kinh doanh tiền tệ của Ngân hàng, đặt dưới sự kiểm soát của ngân hàng thương mại thường có “uy tín cao” nên có nhiều cơ hội kinh doanh đa dạng hơn. Các dịch vụ ủy thác bao gồm: ủy thác cho vay, ủy thác đầu tư, ủy thác nhờ thu, ủy thác chuyển tiền – thanh toán hộ, ủy thác quản lý vốn, ủy thác bảo quản và kí gửi, ủy thác quản lý danh mục đầu tư.
Dịch vụ ngân quỹ là dịch vụ liên quan đến thu chi tiền mặt tại Ngân hàng. Dịch vụ này rất đa dạng bao gồm các dịch vụ thu chi hộ tiền măt tại chỗ, thu đổi ngoại tệ, kiểm đếm, phân loại và vận chuyển tiền mặt.
2. Hoạt động cho vay khách hàng cá nhân tại Ngân hàng thương mại
2.1 Khái niệm và đặc điểm về cho vay khách hàng cá nhân
Theo thông tư 39/2016/TT-NHNN: “Cho vay là hình thức cấp tín dụng, theo đó tổ chức tín dụng giao và cam kết cho các khách hàng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích xác định trong một thời gian nhất định theo thỏa thuận với nguyên tắc hoàn trả gốc và lãi”.
Theo giáo Ngân hàng thương mại, trường Đại học Kinh tế Quốc dân: “Cho vay là việc Ngân hàng cấp tiền cho khách hàng với cam kết khách hàng phải hoàn trả cả gốc lẫn lãi trong khoảng thời gian xác định. Ngân hàng có thể vay bằng tiền mặt hoặc chuyển khoản, tiền có thể chuyển tới tài khoản khách hàng hoặc tài khoản của người bán hàng cho khách hàng”
Khách hàng cá nhân là các pháp nhân, cá nhân có đầy đủ điều kiện để đi vay, có
nhu cầu vay vốn để sản xuất kinh doanh hoặc tiêu dùng cá nhân.
Như vậy, hoạt động cho vay của KHCN là hình thức cho vay mà Ngân hàng chuyển nhượng quyền sở hữu vốn cho khách hàng là cá nhân hoặc hộ gia đình với mục đích tiêu dùng, hoạt động sản xuất kinh doanh nhỏ của cá nhân và hộ gia đình đó với những điều kiện nhất định được thỏa thuận trong hợp đồng.
2.2 Đặc điểm cho vay khách hàng cá nhân
• Khách hàng cá nhân và hoạt động cho vay khách hàng cá nhân
Khách hàng cá nhân là nhóm các đối tượng bao gồm: cá nhân, chủ trang trại, hộ gia đình, tổ hợp tác… Nhóm đối tượng khách hàng này có số lượng rất lớn và nhu cầu vay các món nhỏ lẻ [Hồ Thị Thanh Thúy, 2013].
Hoạt động cho vay đối với khách hàng cá nhân chủ yếu để giúp tài trợ cho việc mua ôtô, nhà ở, trang thiết bị gia đình, vật liệu xây dựng để sửa chữa, hiện đại hóa nhà cửa hay trang trải cho các khoản viện phí, đầu tư sản xuất kinh doanh hộ gia đình và các chi phí cá nhân khác [Hà Tiến Lai, 2011].
Như vậy, hoạt động cho vay KHCN là hình thức cho vay mà Ngân hàng chuyển nhượng quyền sở hữu vốn cho khách hàng là cá nhân hoặc hộ gia đình với mục đích tiêu dùng và hoạt động sản xuất kinh doanh nhỏ của cá nhân và hộ gia đình đó với những điều kiện nhất định được thỏa thuận trong hợp đồng.
• Đặc điểm cho vay khách hàng cá nhân
- Thời hạn của các khoản vay ngắn
Với khách hàng là các doanh nghiệp thì các khoản vay thường được sử dụng với mục đích tài trợ cho tài sản cố định hay xây dựng nhà xưởng… Còn với KHCN, chủ yếu các khoản vay là những khoản vay ngắn hạn, chỉ có một phần trung hạn, dài hạn hầu như không có.
- Khoản cho vay có độ rủi ro cao
Các khoản vay của KHCN thường được đảm bảo bằng thu nhập của chính cá nhân đó. Tuy nhiên, nếu khách hàng gặp phải bất trắc như ốm đau, bệnh tật,… thì ngay lập tức thu nhập đó hoặc giảm sút hoặc thậm chí có thể mất đi hoàn toàn. NHTM luôn phải đối mặt với những rủi ro đó, mà công tác thẩm định, quản lí khách hàng lại không thể kiểm soát được hết tất cả. Chính vì điều này, rất nhiều NHTM trong một thời gian dài trước đây đã rất "ngại" cho KHCN vay vốn. Nhưng hiện nay, nhận thấy hoạt động cho vay đối với KHCN mang lại một nguồn thu không nhỏ nên các NHTM đã tập trung hướng tới mục tiêu này. Và công tác quản lí rủi ro ngày càng được các Ngân hàng quan tâm chú trọng hơn.
- Khoản cho vay có giá trị nhỏ nhưng số lượng các khoản vay lớn
Đặc điểm của KHCN là vay nợ với mục đích tiêu dùng hoặc sản xuất hộ gia đình nên món vay thường có giá trị nhỏ. So với các khoản vay của các doanh nghiệp thì khoản vay này nhỏ hơn rất nhiều lần. Tuy vậy nhưng đối tượng KHCN thường là đông đảo nhất. Ngoài ra, các khoản vay của KHCN thường xuyên phát sinh và khối lượng giao dịch ngày càng lớn. Vì số lượng khoản vay nhiều nên lợi nhuận từ hoạt động cho vay KHCN sẽ không nhỏ nếu Ngân hàng biết cách huy động và làm tốt các công tác quản lí có liên quan khác.
- Chi phí thẩm định lớn
Để tránh gặp phải những rủi ro trong hoạt động cho vay, Ngân hàng thường tiêu tốn nhiều thời gian và tiền bạc vào hoạt động thẩm định và giám sát khoản vay một cách nghiêm ngặt. Ngoài ra, việc thu nhập thông tin cá nhân là rất khó khăn (thường không đầy đủ và thiếu chính xác) nên các NHTM sẽ chấp nhận chi phí cao để đánh đổi rủi ro cao, đảm bảo an toàn cho các món vay.
- Lãi suất thường cao hơn so với lãi suất của các khoản vay khác
Lãi suất áp dụng cho KHCN thường cao hơn các lãi suất khác của các khoản vay khác của NHTM. Do quy mô của các khoản vay thường không lớn nhưng chi phí bỏ ra để quản lí lại rất lớn nên các NHTM phải đề ra mức lãi suất cao để bù đắp chi phí (gồm chi phí về thời gian, nhân lực, thẩm định, quản lí…).
2.3 Phân loại cho vay khách hàng cá nhân
Khách hàng cá nhân thường vay các khoản nhỏ lẻ nhằm mục đích sản xuất, tiêu dùng.
- Phân loại theo thời hạn khoản vay
Tín dụng ngắn hạn: Là khoản tín dụng dưới 1 năm và được sử dụng để bổ sung sự thiếu hụt tạm thời vốn lưu động của khách hàng nhằm mục đích sinh hoạt của gia đình.
Tín dụng trung hạn: Là khoản tín dụng có thời hạn 1-3 năm, thường để cung cấp, mua tài sản cố định, phục vụ cho nhu cầu sản xuất và kinh doanh có giá trị cao của hộ gia đình.
Tín dụng dài hạn: Là khoản tín dụng có thời hạn 3 năm trở lên, nhằm đáp ứng nhu cầu của hộ gia đình như sản xuất lớn, mua nhà ở có giá trị cao.
- Phân loại theo mục đích sử dụng vốn
Tín dụng tiêu dùng: Là hình thức dành cho cá nhân có nhu cầu mua sắm tài sản phục vụ cho sinh hoạt gia đình.
Tín dụng cho sản xuất kinh doanh: Là loại tín dụng dành cho những cơ sở sản xuất, kinh doanh nhằm mục đích hỗ trợ thúc đẩy sản xuất kinh doanh như mua sắm thiết bị máy móc, cung cấp vốn lưu động.
- Phân loại theo tài sản đảm bảo
Tín dụng có tài sản đảm bảo: Là hình thức đi vay cầm cố, thế chấp tài sản đảm bảo hoặc có sự bảo lãnh bên thứ ba.
Tín dụng không có tài sản đảm bảo: hay còn gọi là tín chấp, không có tài sản đảm bảo hay sự bảo lãnh của bên thứ ba.
- Phân loại dựa vào hình thức tín dụng
Cho vay: là việc ngân hàng cam kết cấp một khoản tiền cho khách hàng với những ràng buộc khách hàng sẽ phải hoàn trả gốc và lãi theo đúng quy định của hợp đồng tín dụng đã ký.
Chiết khấu: là việc mà Ngân hàng dùng một khoản tiền tương ứng trên giấy tờ có giá mà khách hàng mang đến trừ đi khoản chi phí và lợi nhuận của Ngân hàng để mua lại giấy tờ có giá đó từ khách hàng.
Cho thuê tài chính: là việc mà ngân hàng cam kết mua và cho thuê lại máy móc thiết bị, phương tiện vận tải,… theo yêu cầu của khách hàng. Trong thời gian thuê thì Ngân hàng vẫn là chủ sở hữu tài sản và khách hàng có nghĩa vụ trả tiền thuê.
Bảo lãnh: là việc mà Ngân hàng cam kết sẽ thực hiện những nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng (bên được bảo lãnh) của mình khi khách hàng không đủ khả năng thực hiện được nghĩa vụ tài chính của mình.
2.4 Vai trò khách hàng cá nhân
Đối với bản thân khách hàng: Giúp cho khách hàng có một khoản chi phí để
trang trải cuộc sống, phục vụ cho việc sản xuất kinh doanh,…
Đối với bản thân ngân hàng: Hoạt động cho vay là hoạt động chủ yếu và mang lại nhiều lợi nhuận nhất cho một Ngân hàng thương mại. Trong quá trình phát triển mặc dù môi trường kinh doanh các thay đổi lớn như các sản sản phẩm ứng dụng mới song hoạt động cho vay vẫn là hoạt động cơ bản và chiếm tỷ trọng lớn trong toàn bộ các hoạt động của Ngân hàng thương mại
Đối với nền kinh tế: Trong nền kinh tế ở nước ta hiện nay, cho vay là một nguồn vốn vô cùng quan trọng. Nó là công cụ để thúc đẩy nền kinh tế xã hội phát triển, thay đổi cơ cấu kinh tế, tăng cường và mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại.
Rất mong nhận được sự hợp tác!
Trân trọng./.
Bộ phận tư vấn pháp luật dân sự - Công ty luật Minh Khuê