Mục lục bài viết
1. Biện pháp ngăn chặn là gì?
Biện pháp ngăn chặn được hiểu là các biện pháp mang tính chất cưỡng chế về mặt tố tụng áp dụng khi có đủ căn cứ đối với bị can, bị cáo hoặc người chưa bị khởi tố trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang, để ngăn chặn những hành vi nguy hiểm của họ trong xã hội, ngăn ngừa họ tiếp tục phạm tội, trốn tránh pháp luật hoặc có hành động gây cản trở cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án.
Biện pháp ngăn chặn được quy định trong bộ luật tố tụng hình sự gồm: bắt người, tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản để bảo đảm.
2. Khái quát về các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự
Các biện pháp ngăn chặn quy định tại Điều 109 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 có những thay đổi so với Điều 79 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 ở những điểm sau đây:
- Đối tượng bị áp dụng đã được mở rộng bằng khái niệm “người bị buộc tội” bao gồm người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo (điểm đ khoản 1 Điều 4 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015).
- Trong số các biện pháp ngăn chặn thì biện pháp “giữ người trong trường hợp khẩn cấp” được thay cho biện pháp “bắt người trong trường hợp khẩn cấp” và bổ sung biện pháp mới là “tạm hoãn xuất cảnh”.
- Trong số các trường hợp bắt người có sự thay đổi là “bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp” thay cho “bắt người trong trường hợp khẩn cấp” (Điều 81 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003) và bổ sung thêm trường hợp mới là “bắt người bị yêu cầu dẫn độ".
Những nội dung mới nêu trên đã khắc phục được một số hạn chế của Điều 79 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 và bất cập trong thực tiễn điều tra truy tố, xét xử các vụ án hình sự (về tạm hoãn xuất cảnh và bắt người bị yêu cầu dẫn độ).
3. Giữ người trong trường hợp khẩn cấp (Điều 110 LTTHS 2015)
- Các trường hợp được giữ người trong trường hợp khẩn cấp:
+ Có đủ căn cứ để xác định người đó đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng;
+ Người cùng thực hiện tội phạm hoặc bị hại hoặc người có mặt tại nơi xảy ra tội phạm chính mắt nhìn thấy và xác nhận đúng là người đã thực hiện tội phạm mà xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn;
+ Có dấu vết của tội phạm ở người hoặc tại chỗ ở hoặc nơi làm việc hoặc trên phương tiện của người bị nghi thực hiện tội phạm và xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ.
- Chủ thể có quyền ra lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp:
+ Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp;
+ Thủ trưởng đơn vị độc lập cấp trung đoàn và tương đương, Đồn trưởng Đồn biên phòng, Chỉ huy trưởng Biên phòng Cửa khẩu cảng, Chỉ huy trưởng Bộ đội biên phòng tỉnh, thành phố trực truộc trung ương, Cục trưởng Cục trinh sát biên phòng Bộ đội biên phòng, Cục trưởng Cục phòng, chống ma túy và tội phạm Bộ đội biên phòng, Đoàn trưởng Đoàn đặc nhiệm phòng, chống ma túy và tội phạm Bộ đội biên phòng; Tư lệnh vùng lực lượng Cảnh sát biển, Cục trưởng Cục Nghiệp vụ và pháp luật lực lượng Cảnh sát biển, Đoàn trưởng Đoàn đặc nhiệm phòng, chống tội phạm ma túy lực lượng Cảnh sát biển; Chi cục trưởng Chi cục Kiểm ngư vùng;
+ Người chỉ huy tàu bay, tàu biển khi tàu bay, tàu biển đã rời khỏi sân bay, bến cảng.
- Lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp phải ghi rõ họ tên, địa chỉ của người bị giữ, lý do, căn cứ giữ người và các nội dung quy định tại khoản 2 Điều 132 của Bộ luật TTHS 2015. Việc thi hành lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp phải theo đúng quy định tại khoản 2 Điều 113 của Bộ luật TTHS 2015.
- Hồ sơ đề nghị Viện kiểm sát phê chuẩn lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp gồm:
- Văn bản đề nghị Viện kiểm sát phê chuẩn lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp;
- Lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp, lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, quyết định tạm giữ;
- Biên bản giữ người trong trường hợp khẩn cấp;
- Biên bản ghi lời khai của người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp;
- Chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan đến việc giữ người trong trường hợp khẩn cấp.
4. Bắt người trong trường hợp khẩn cấp (Điều 81 BLTTHS 2003)
Trong những trường hợp sau đây thì được bắt khẩn cấp:
- Khi có căn cứ để cho rằng người đó đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng;
- Khi người bị hại hoặc người có mặt tại nơi xảy ra tội phạm chính mắt trông thấy và xác nhận đúng là người đã thực hiện tội phạm mà xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn;
- Khi thấy có dấu vết của tội phạm ở người hoặc tại chỗ ở của người bị nghi thực hiện tội phạm và xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn hoặc tiêu huỷ chứng cứ.
Những người sau đây có quyền ra lệnh bắt người trong trường hợp khẩn cấp:
- Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp;
- Người chỉ huy đơn vị quân đội độc lập cấp trung đoàn và tương đương; người chỉ huy đồn biên phòng ở hải đảo và biên giới;
- Người chỉ huy tàu bay, tàu biển, khi tàu bay, tàu biển đã rời khỏi sân bay, bến cảng.
Trong mọi trường hợp, việc bắt khẩn cấp phải được báo ngay cho Viện kiểm sát cùng cấp bằng văn bản kèm theo tài liệu liên quan đến việc bắt khẩn cấp để xét phê chuẩn.
Viện kiểm sát phải kiểm sát chặt chẽ căn cứ bắt khẩn cấp quy định tại Điều này. Trong trường hợp cần thiết, Viện kiểm sát phải trực tiếp gặp, hỏi người bị bắt trước khi xem xét, quyết định phê chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn.
Trong thời hạn 12 giờ, kể từ khi nhận được đề nghị xét phê chuẩn và tài liệu liên quan đến việc bắt khẩn cấp, Viện kiểm sát phải ra quyết định phê chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn. Nếu Viện kiểm sát quyết định không phê chuẩn thì người đã ra lệnh bắt phải trả tự do ngay cho người bị bắt.
5. Điểm mới về biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp
Như đã nói ở trên, biện pháp ngăn chặn giữ người trong trường hợp khẩn cấp thay thế cho “bắt người trong trường hợp khẩn cấp” tại Điều 81 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 và các căn cứ để áp dụng biện pháp này về cơ bản không có sự khác biệt nhiều so với biện pháp “bắt người trong trường hợp khẩn cấp” trừ một số quy định mới sau đây:
- Ngoài người bị hại, người chứng kiến tội phạm xảy ra thì sự xác nhận của “người cùng thực hiện tội phạm” (điểm b khoản 1 Điều 110), phát hiện dấu vết tội phạm tại “nơi làm việc hoặc trên phương tiện của người bị nghi thực hiện tội phạm” (điểm c khoản 1 Điều 110) cũng là căn cứ để áp dụng.
- Ngoài chủ thể có thẩm quyền áp dụng là Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp; người chỉ huy tàu bay, tàu biển khi tàu bay, tàu biển đã rời khỏi sân bay, bến cảng thì Bộ luật đã bổ sung nhóm những chức danh cụ thể là những người đứng đầu một số đơn vị trực thuộc Bộ đội biên phòng, cảnh sát biển và Kiểm ngư. Đây là danh mục do luật định và chỉ có những người thuộc chức danh được liệt kê trong điểm b khoản 2 Điều 110 mới có quyền áp dụng biện pháp ngăn chặn này.
- Bộ luật quy định chặt chẽ hơn về trình tự, thủ tục giữ người trong trường hợp khẩn cấp. Cụ thể là: quy định về nội dung của lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp, lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, về hồ sơ kèm theo lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp đề nghị Viện kiểm sát phê chuẩn, về nghĩa vụ của người chỉ huy tàu bay, tàu biển giao người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp cho Cơ quan điều tra tại sân bay, bến cảng đầu tiên tàu trở về. Trong thời hạn 12 giờ kể từ khi giữ người trong trường hợp khẩn cấp hoặc nhận người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra và những người có thẩm quyền theo luật định của những cơ quan này phải thực hiện: lấy lời khai của người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp; nếu thấy có căn cứ thì ra quyết định tạm giữ, lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp và chuyển hồ sơ đề nghị Viện kiểm sát phê chuẩn bao gồm: văn bản đề nghị Viện kiểm sát phê chuẩn Lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp; lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp; lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp; quyết định tạm giữ; biên bản giữ người trong trường hợp khẩn cấp; biên bản ghi lời khai người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp và chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan đến việc giữ người trong trường hợp khẩn cấp. Nếu không thấy có đủ căn cứ thì phải trả tự do ngay cho người bị giữ.
Thời hạn này so với trường hợp bắt người trong trường hợp khẩn cấp (Điều 83 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003) đã được rút ngắn một nửa.
- Trường hợp Viện kiểm sát thấy cần thiết gặp, hỏi người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp để xem xét việc phê chuẩn lệnh bắt đối với người đó thì biên bản ghi lời khai của người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp do Kiểm sát viên lập và phải được đưa vào hồ sơ vụ án, vụ việc. Bộ luật quy định rõ hơn khi Viện kiểm sát không phê chuẩn lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp thì người đã ra lệnh giữ người khẩn cấp và Cơ quan điều tra đã nhận người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp phải trả tự do ngay cho người bị giữ.