Mục lục bài viết
- 1. Mức hình phạt khi cố ý gây thương tích 30%?
- 2. Hỏi về tội cố ý gây thương tích sẽ bị xử lý như thế nào?
- 3. Khi nào thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội cố ý gây thương tích?
- 4. Truy cứu trách nhiệm hình sự về tội trộm cắp tài sản và tội cố ý gây thương tích?
- 5. Tội cố ý gây thương tích và mức bồi thường thiệt hại khi cố ý gây thương tích?
1. Mức hình phạt khi cố ý gây thương tích 30%?
Kính chào Luật Minh Khuê, em có một vấn đề mong luật sư giải đáp: Một hôm gia đình em tổ chức ăn uống, sau khi ăn uống anh em trong gia đình cũng có đánh bài tiền nhưng chỉ mang tính chất giải trí vì tất cả số tiền chỉ có 200.000 đồng, chơi được một lúc thì có một người hàng xóm tới chơi trong tình trạng say xỉn và gia đình không cho chơi và đã mời về nhiều lần nhưng anh này không chịu và có nhiều lời nói thách thức và sau nhiều lần mời về không được thì 2 bên xảy ra xô xát.
Kết quả là người này bị đứt một mạch máu ở dạ dày, trong lúc người này phẫu thuật gia đình có đi thăm hỏi và đưa tiền thuốc thang. Hiện giờ, người này đã ra viện và tình trạng sức khỏe bình thường và gia đình tới nói chuyện và muốn được bồi dưỡng thuốc thang nhưng bên kia đòi quá cao ngoài khả năng của gia đình (100.000.000 đồng ). Và họ đưa đơn kiện, theo một số thông tin em được biết nếu giám định pháp y người này có thể bị thương tích tạm thời khoảng 30%. Luật sư cho em hỏi nếu ra tòa thì em có phải bị đi tù hay không? Và mức phạt tù là bao nhiêu?
>>. Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua điện thoại gọi: 1900.6162
Trả lời:
Hành vi cố ý gây thương tích cho người khác là hành vi gây nguy hiểm đến sức khỏe, tính mạng của người khác. Do đó, Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định về tội cố ý gây thương tích tại Điều 134 như sau:
"2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 06 năm:
a) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31 % đến 60%;
..."
Theo như thông tin bạn cung cấp thì mức độ thương tật của người này có thể là 30 % khi giám định, nếu thực sự mức độ giám định thương tật là 30% thì bạn có thể bị phạt tù từ hai năm đến 06 năm. Tuy nhiên, hình phạt cụ thể như thế nào là do Tòa án quyết định căn cứ trên mức độ nguy hiểm của hành vi, các tình tiết tăng nặng, các tình tiết giảm nhẹ, nhân thân người phạm tội…
Có thể thấy, sau khi gây thương tích gia đình bạn đã rất tận tình thăm hỏi và lo tiền thuốc thang cho gia đình nạn nhân. Hơn nữa, mức độ thương tật 30 % mới chỉ là những suy đoán, tỷ lệ thương tật tạm thời chứ chưa có một bản kết luận giám định cụ thể. Do đó, quy định trên chỉ có tính chất tham khảo đối với gia đình bạn, chứ không phải là hình phạt cụ thể dành cho bạn.
Tuy nhiên, khi người thân trong gia đình bạn gây thương tích cho người kia nên gia đình bạn phải bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm theo quy định tại Điều 590 Bộ luật Dân sự năm 2015 như sau:
"1. Thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm bao gồm:
a) Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khỏe và chức năng bị mất, bị giảm sút của người bị thiệt hại;
b) Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại; nếu thu nhập thực tế của người bị thiệt hại không ổn định và không thể xác định được thì áp dụng mức thu nhập trung bình của lao động cùng loại;
c) Chi phí hợp lý và phần thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị; nếu người bị thiệt hại mất khả năng lao động và cần phải có người thường xuyên chăm sóc thì thiệt hại bao gồm cả chi phí hợp lý cho việc chăm sóc người bị thiệt hại;
d) Thiệt hại khác do luật quy định.
2. Người chịu trách nhiệm bồi thường trong trường hợp sức khỏe của người khác bị xâm phạm phải bồi thường thiệt hại theo quy định tại khoản 1 Điều này và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần mà người đó gánh chịu. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì mức tối đa cho một người có sức khỏe bị xâm phạm không quá năm mươi lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định."
Căn cứ theo quy định trên, gia đình bạn nên tự thỏa thuận với người hàng xóm để đưa ra được mức bồi thường tương ứng với thiệt hại về sức khỏe của bên kia, để có lợi cho cả hai bên, giữ vững tình làng, nghĩa xóm, tránh việc phải có sự can thiệp của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, cũng là có lợi cho gia đình bạn vì bên gia đình bạn là người gây ra thiệt hại cho bên kia.
>> Tham khảo thêm dịch vụ pháp lý: Dịch vụ luật sư tư vấn giải quyết tranh chấp tại tòa án
2. Hỏi về tội cố ý gây thương tích sẽ bị xử lý như thế nào?
Thưa luật sư, luật sư có thể trả lời giúp em về vấn đề này không: Em bị 4 đối tương chặn đầu khi em khi đang đi. Rồi có 2 đối tượng lao vào đánh em liên tục. Sau khi đánh xong 4 đối tương lên xe đi mất. Em bị rạch một phần mặt khoảng 3 cm có thể bằng dao lam. Mặt em một bên bị biến dạng và mắt bị sưng che gần hết một bên.
Sống mũi bị va đập mạnh nên em rất khó khăn khi thở, tai thì sau khi đánh bị ù và nghe rất không rõ. Vậy em muốn hỏi về hành vi cố ý gây thương tích của các đối tượng và em kiện thì bên các đối tượng sẽ bị như thế nào?
Luật sư tư vấn trực tiếp về pháp luật hình sự, gọi: 1900.6162
Trả lời:
Căn cứ Điều 134 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017quy định về hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác và Điều 144 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định về tố giác và tin báo về tội phạm:
"Điều 144. Tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố
1. Tố giác về tội phạm là việc cá nhân phát hiện và tố cáo hành vi có dấu hiệu tội phạm với cơ quan có thẩm quyền.
2. Tin báo về tội phạm là thông tin về vụ việc có dấu hiệu tội phạm do cơ quan, tổ chức, cá nhân thông báo với cơ quan có thẩm quyền hoặc thông tin về tội phạm trên phương tiện thông tin đại chúng.
3. Kiến nghị khởi tố là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền kiến nghị bằng văn bản và gửi kèm theo chứng cứ, tài liệu liên quan cho Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát có thẩm quyền xem xét, xử lý vụ việc có dấu hiệu tội phạm.
4. Tố giác, tin báo về tội phạm có thể bằng lời hoặc bằng văn bản.
5. Người nào cố ý tố giác, báo tin về tội phạm sai sự thật thì tuỳ tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của luật."
Như vậy, bạn hoàn toàn có quyền tố giác tội phạm đến cơ quan công an cấp huyện về hành vi cố ý gây thương tích. Trong thời hạn hai mươi ngày, kể từ ngày nhận được tố giác, tin báo về tội phạm, Cơ quan công an trong phạm vi trách nhiệm của mình phải kiểm tra, xác minh nguồn tin và quyết định việc khởi tố hoặc quyết định không khởi tố vụ án hình sự. Trong trường hợp sự việc bị tố giác có nhiều tình tiết phức tạp hoặc phải kiểm tra, xác minh tại nhiều địa điểm thì thời hạn để giải quyết tố giác có thể dài hơn, nhưng không quá hai tháng theo khoản 2 Điều 147Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
>> Tham khảo ngay: Mức tiền bảo lãnh để được tại ngoại đối với tội cố ý gây thương tích?
3. Khi nào thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội cố ý gây thương tích?
Thưa luật sư, xin hỏi: Gia đình tôi có mua một phần đất làm đường đi lại của ông H vào năm 2010, lúc đó vợ ông H là bà D bỏ địa bàn đi không thể ký tên. Ông H và các con ký tên nói sau này có gì trở ngại ông H hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật.
Ngày nay, bà D về rào đường gia đình tôi không có lối ra vào, đã nhờ UBND xã giải quyết và đưa ra đề nghị cho gia đình tôi đi tạm chờ Tòa giải quyết ra kết luận. Vì thế gia đình tôi mở rào đi, bà D không đồng ý. Hôm nay, tôi là con trong nhà đi ra đường trên phần đất đã có đề nghị cho đi tạm của ủy ban nhân dân xã thì gia đình ông ta nghe bày kế hoạch sẵn ông H chặn đường đầu ngoài, vợ đầu trong. Tôi thấy vậy quay lại và bị bà D chặn đánh. Lúc đó tay phải tôi bị bỏng nặng nên hoàn toàn không có khả năng tự vệ. Tôi bị đánh và đưa đi bệnh viện chụp hình kết quả chấn thương phần mềm lưng và cổ tay. Ông H và bà D khi đánh tôi nói "tôi là đảng viên, làm việc nhà nước tưởng không dám đánh mày sao, ủy ban tao cũng không sợ đất tao tao rào".
Do đau quá nên tôi được đưa đến bệnh viện tư nhân khám và không có xác nhận tỷ lệ thương tật bao nhiêu phần trăm mà chỉ để chấn thương phần mềm vùng lưng và cổ tay. Như vậy, tôi có thể thưa kiện vợ chồng ông H - bà D cố ý đánh người gây thương tích được không và theo pháp luật hiện hành hành vi trên sẽ bị trừng trị như thế nào? Xin cảm ơn luật sư rất nhiều.
Luật sư tư vấn luật Hình sự về trách nhiệm hình sự, gọi: 1900.6162
Trả lời:
Khoản 1 Điều 33 Bộ luật Dân sự năm 2015 có quy định về quyền được pháp luật bảo vệ về tính mạng, sức khỏe, thân thể như sau:
"Điều 33. Quyền sống, quyền được bảo đảm an toàn về tính mạng, sức khỏe, thân thể
1. Cá nhân có quyền sống, quyền bất khả xâm phạm về tính mạng, thân thể, quyền được pháp luật bảo hộ về sức khỏe. Không ai bị tước đoạt tính mạng trái luật."
Theo đó, với dữ liệu bạn đưa ra ông H và bà D chặn đường, đánh bạn được coi là hành vi vi phạm pháp luật, hành vi của ông bà này đã xâm phạm quyền về tính mạng, sức khỏe, thân thể mà pháp luật đang bảo vệ cho bạn. Trong trường hợp này để bảo vệ quyền và lợi ích của mình bạn nên làm đơn yêu cầu cơ quan điều tra - cơ quan công an cấp quận/huyện xem xét, giải quyết.
Do bạn chưa đi giám định tỷ lệ thương tật nên chúng tôi chưa thể xác định chính xác ông H và bà D sẽ phải chịu trách nhiệm hành chính hay trách nhiệm hình sự. Nếu ông H và bà D có sử dụng hung khi để đánh bạn và tỷ lệ thương tật mà ông H, bà D gây ra có bạn là 1% thì ông bà này vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự về tội cố ý gây thương tích quy định tại Điều 134 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.
>> Xem thêm nội dung liên quan: Cố ý gây thương tích sẽ bị xử phạt như thế nào theo Luật hình sự mới?
4. Truy cứu trách nhiệm hình sự về tội trộm cắp tài sản và tội cố ý gây thương tích?
Thưa luật sư, xin hỏi: T (18 tuổi) bị kết án 2 năm tù về tội trộm cắp tài sản theo điểm đ khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự và được toà án xét cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 4 năm. Tuy nhiên, khi chỉ còn 4 tháng nữa là hết thời gian thử thách của bản án cho hưởng án treo, do có mâu thuẫn từ trước với H, T đã có hành vi cố ý gây thương tích cho H. Với tỷ lệ thương tật là 14%. Toà án kết án T mức án 1 năm tù về tội cố ý gây thương tích theo khoản 1 Điều 134 Bộ luật hình sự. Hỏi:
1. Theo cách phân loại tội phạm ở Điều 9 Bộ luật hình sự, hãy xác định tội trộm cắp tài sản và tội cố ý gây thương tích mà T thực hiện và bị xét xử thuộc loại tội phạm gì?
2. Việc tổng hợp hình phạt của hai bản án được tiến hành như thế nào?
3. Khi xem xét trách nhiệm hình sự đối với T về tội cố ý gây thương tích, tòa án có áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “tái phạm” không?
4. T có thể được tòa án cho hưởng án treo lần nữa không?
Trả lời:
Về việc phân loại tội phạm:
Theo Điều 9 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định:
"Căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội được quy định trong Bộ luật này, tội phạm được phân thành bốn loại sau đây:
1. Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội không lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là phạt tiền, phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù đến 03 năm;
2. Tội phạm nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là từ trên 03 năm đến 07 năm tù;
3. Tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội rất lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là từ trên 07 năm đến 15 năm tù;
4. Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội đặc biệt lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là từ trên 15 năm đến 20 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình."
Khoản 1 Điều 134 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác như sau: Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
- Dùng vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy hiểm hoặc thủ đoạn có khả năng gây nguy hại cho nhiều người;
- Dùng a-xít nguy hiểm hoặc hóa chất nguy hiểm;
- Đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ;
- Đối với ông, bà, cha, mẹ, thầy giáo, cô giáo của mình, người nuôi dưỡng, chữa bệnh cho mình;
- Có tổ chức;
Như vậy, nếu T bị kết án theo khoản 1 Điều 134 với mức cao nhất của khung hình phạt là đến 3 năm tù, chiếu theo quy định của Điều 9 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 thì đây là tội ít nghiêm trọng. Với hành vi phạm tội bị kết án theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 173 với mức cao nhất của khung hình phạt là đến 7 năm tù thì hành vi này được xác định là tội nghiêm trọng.
Về tổng hợp hình phạt và tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với hành vi của T:
Theo Điều 56 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định về tổng hợp hình phạt của nhiều bản án như sau:
"1. Trong trường hợp một người đang phải chấp hành một bản án mà lại bị xét xử về tội đã phạm trước khi có bản án này, thì Tòa án quyết định hình phạt đối với tội đang bị xét xử, sau đó quyết định hình phạt chung theo quy định tại Điều 55 của Bộ luật này.
Thời gian đã chấp hành hình phạt của bản án trước được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt chung.
2. Khi xét xử một người đang phải chấp hành một bản án mà lại thực hiện hành vi phạm tội mới, Tòa án quyết định hình phạt đối với tội mới, sau đó tổng hợp với phần hình phạt chưa chấp hành của bản án trước rồi quyết định hình phạt chung theo quy định tại Điều 55 của Bộ luật này.
3. Trong trường hợp một người phải chấp hành nhiều bản án đã có hiệu lực pháp luật mà các hình phạt của các bản án chưa được tổng hợp, thì Chánh án Tòa án có thẩm quyền ra quyết định tổng hợp hình phạt của các bản án theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này."
Trong trường hợp này, việc tổng hợp bản án của T được tiến hành theo khoản 2 Điều 56, việc tổng hợp sẽ được thực hiện như sau: Toà án quyết định hình phạt cho một hay các tội đang xét xử (trường hợp phạm nhiều tội mới), sau đó cộng hình phạt hay các hình phạt đã tuyên với phần hình phạt chưa chấp hành của bản án trước. Hình phạt chung không được vượt quá giới hạn được quy định tại Điều 55 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Theo Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định về các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự thì việc tái phạm của T được coi là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
Về việc T có được hưởng án treo không?
Án treo là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện, được Tòa án áp dụng đối với người phạm tội bị phạt tù không quá 03 năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, xét thấy không cần buộc phải chấp hành hình phạt tù.
Căn cứ Điều 2 Nghị quyết 02/2018/NQ-HĐTP hướng dẫn áp dụng Điều 65 của Bộ luật Hình sự về án treo do Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ban hành thì người bị xử phạt tù có thể được xem xét cho hưởng án treo khi có đủ các điều kiện sau đây:
- Bị xử phạt tù không quá 03 năm.
- Có nhân thân tốt. Được coi là có nhân thân tốt nếu ngoài lần phạm tội này, người phạm tội luôn chấp hành đúng chính sách, pháp luật và thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của công dân ở nơi cư trú, nơi làm việc. Đối với người đã bị kết án nhưng thuộc trường hợp được coi là không có án tích, người bị kết án nhưng đã được xóa án tích, người đã bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị xử lý kỷ luật mà thời gian được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính, chưa bị xử lý kỷ luật tính đến ngày phạm tội lần này đã quá 06 tháng, nếu xét thấy tính chất, mức độ của tội phạm mới được thực hiện thuộc trường hợp ít nghiêm trọng hoặc người phạm tội là đồng phạm có vai trò không đáng kể trong vụ án và có đủ các điều kiện khác thì cũng có thể cho hưởng án treo.
- Có từ 02 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trở lên, trong đó có ít nhất 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự và không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự. Trường hợp có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự thì số tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự phải nhiều hơn số tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự từ 02 tình tiết trở lên, trong đó có ít nhất 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
- Có nơi cư trú rõ ràng hoặc nơi làm việc ổn định để cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giám sát, giáo dục. Nơi cư trú rõ ràng là nơi tạm trú hoặc thường trú có địa chỉ được xác định cụ thể theo quy định của Luật Cư trú mà người được hưởng án treo về cư trú, sinh sống thường xuyên sau khi được hưởng án treo. Nơi làm việc ổn định là nơi người phạm tội làm việc có thời hạn từ 01 năm trở lên theo hợp đồng lao động hoặc theo quyết định của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền.
- Xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù nếu người phạm tội có khả năng tự cải tạo và việc cho họ hưởng án treo không gây nguy hiểm cho xã hội; không ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội.
Như vậy, khi xét xử về tội mới tòa sẽ căn cứ vào hình phạt của bản án trước đây đã cho hưởng án treo và tổng hợp với hình phạt của bản án mới để quyết định hình phạt chung cho cả hai bản án từ đó xem xét xem T có được hưởng án treo lần nữa không áp dụng theo đúng quy định của pháp luật.
5. Tội cố ý gây thương tích và mức bồi thường thiệt hại khi cố ý gây thương tích?
Gia đình em thì bố em là anh và một chú nữa cùng làng là em ruột. Hiện bà nội về ở cùng gia đình em nhưng bà ở một mình một nhà vì bà vẫn đi lại và nấu ăn bình thường.
Do có chút mâu thuẫn nhỏ nên bà nội giận gia đình nhà em, nhà em mang biếu gì bà cũng không ăn, không lấy. Gia đình em cũng không biết phải làm gì để bà hết giận vì bà nội em rất khó tính. Cách đây vài ngày thì ông chú ruột có vào thăm bà (sống cùng làng em), và bà nội bảo với chú ấy là ốm mấy hôm nay mà không đứa nào nhìn ngó, trông nom, trong khi đó gia đình em ngày nào cũng đi ra nhà ngoài (nhà bà nội em đang ở) để trông nom ao cá, cắt cỏ, dọn vườn và thấy bà vẫn bình thường và đi lại nấu cơm được (vì bà giận nên bố mẹ em thấy bà khỏe vậy nên cũng không hỏi vì có hỏi bà lại nhiều chuyện), và mọi người xung quanh nhà em cũng công nhận là bà vẫn sinh hoạt bình thường, giặt giũ quần áo hàng ngày ở bờ ao. Vậy mà hôm đó bà nói với chú em, và chú em có gọi điện và vào nhà em trách gia đình em, trong khi xảy ra cãi vã thì chú em vào nhà bà và vác 2 con dao ra chém thẳng vào đầu bố em, rất may bố em đưa tay lên đỡ và cúi người xuống thì chỉ bị chém vào tay. Mọi người trong xóm đưa bố em đi viện để xử lý vết thương thì các bác sỹ nói rằng bố em bị đứt 2 gân bàn tay, phải gây mê và xử lý bằng cách nối lại gân. Nhà em có làm đơn tường trình sự việc và báo chính quyền thôn để xin xác nhận và gửi đơn lên xã, sau quá trình điều trị 15 ngày thì bố em được tháo chỉ, nhà chú em thì thím với các em vào nhờ vả gia đình là giải quyết tình cảm.
Vì chỗ thân thiết nên bố em cũng nguôi và đồng ý với cách giải quyết này. Các bác sỹ bệnh viện nói rằng trong quá trình điều trị thì bố em không được làm gì trong khoảng thời gian là 4 tháng. Và phải nhẹ nhàng tập để cử động cho gân quen đi, không được làm nặng vì gân sẽ bị đứt ra nếu cử động mạnh. Nghĩ rằng vết thương của bố em không hề nhẹ khâu 7 mũi ở bàn tay và cái sự đau đớn còn kéo dài đến hết đời khi trái gió trở trời, hôm qua chú em có vào và mang 5 triệu vào bảo bố em là gửi tiền viện phí. Thì bố em có nói là bây giờ 4 tháng bố em không làm gì được thì tính mỗi ngày 100.000 VNĐ tiền bồi thường thì chú có to tiếng và nói rằng không hót được tiền của thiên hạ. Và nói rằng cái tay của bố em không có chụp phim, ảnh gì thì sao biết là đứt gân và nói rằng ông ra ao chặt củi hay dọn dẹp gai nó cào vào rồi ông về băng bó và và bắt tôi đền bù sao.
Và chú em có nói phải có phim ảnh của bệnh viện, rồi ai làm chứng là chú ấy chém bố em. Với ý không muốn mất thêm tiền. Bố em đáng lẽ nguôi rồi nhưng hành động và thái độ của chú ấy như vậy nên bây giờ bố em muốn pháp luật can thiệp. Hôm chú đuổi chém bố em thì hàng xóm có cô và bác (lấy chồng ở xa về chơi có chứng kiến chú cầm 2 con dao đuổi bố em, và họ đã ra ôm chú ấy để bố em chạy được về đi viện) ?
Trả lời:
Căn cứ theo Điều 134 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, cũng như căn cứ theo thông tin mà bạn cung cấp, chú bạn đã sử dụng 2 con dao để tấn công bố bạn, đây được coi là hung khí nguy hiểm. Do đó, chú của bạn có thể bị truy cứu truy cứu trách nhiệm hình sự về tội cố ý gây thương tích mà không cần xác định tỷ lệ thương tật của bố bạn. Theo đó, chú của bạn có thể bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm. Để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với chú của bạn, bạn thực hiện việc tố giác tội phạm theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, theo đó, bạn có thể trình báo sự việc này với cơ quan công an.
Về trách nhiệm bồi thường thiệt hại về sức khỏe quy định tại Điều 584, Điều 585 và Điều 590 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì chú của bạn phải chịu chi trả những chi phí hợp lý, chi phí y tế để điều trị, chi phí chăm sóc bố bạn hằng ngày (đồ ăn, đồ uống), khoản thu nhập thực tế bị mất của bố bạn trong quá trình điều trị; chú bạn cũng phải trả 1 khoản tiền bồi dưỡng về tinh thần như quy định trên.
>> Tham khảo nội dung liên quan: Cố ý gây thương tích đi tù bao nhiêu năm?