Mục lục bài viết
1. Mức vốn pháp định áp dụng với Quỹ tín dụng nhân dân
Căn cứ theo quy định tại Nghị định 86/2019/NĐ-CP quy định mức vốn pháp định của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài quy định về mức vốn pháp định áp dụng với Quỹ tín dụng nhân dân như sau:
Cụ thể, mức vốn pháp định đối với các loại hình ngân hàng, tổ chức tín dụng như sau: Ngân hàng thương mại: 3.000 tỷ đồng; Ngân hàng chính sách: 5.000 tỷ đồng; Ngân hàng hợp tác xã: 3.000 tỷ đồng; Chi nhánh ngân hàng nước ngoài: 15 triệu đô la Mỹ (USD); Công ty tài chính: 500 tỷ đồng; Công ty cho thuê tài chính: 150 tỷ đồng; Tổ chức tài chính vi mô: 05 tỷ đồng; Quỹ tín dụng nhân dân hoạt động trên địa bàn một xã, một thị trấn: 0,5 tỷ đồng; Quỹ tín dụng nhân dân hoạt động trên địa bàn một phường; quỹ tín dụng nhân dân hoạt động trên địa bàn liên xã, liên xã phường, liên phường: 01 tỷ đồng.
Theo Nghị định 86/2019/NĐ-CP, mức vốn pháp định đối với Quỹ tín dụng nhân dân bao gồm 02 mức: 0.5 tỷ đồng đối với Quỹ tín dụng nhân dân hoạt động trên địa bàn một xã, một thị trấn; 01 tỷ đồng đối với Quỹ tín dụng nhân dân hoạt động trên địa bàn một phường; Quỹ tín dụng nhân dân hoạt động trên địa bàn liên xã, liên xã phường, liên phường. Đây là một điểm mới so với quy định trước đây tại Nghị định 10/2011/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 141/2006/NĐ-CP ngày 22 tháng 11 năm 2006 về ban hành danh mục mức vốn pháp định của các tổ chức tín dụng, theo đó, Quỹ tín dụng nhân dân được chia làm 02 cấp gồm: Cấp trung ương với mức vốn pháp định đến năm 2011 là 3000 tỷ đồng; Cấp cơ sở có mức vốn pháp định đến năm 2011 là 0,1 tỷ đồng.
2. Bất cập, sai phạm trong quá trình hoạt động Quỹ tín dụng nhân dân
Hạn chế trong xử lý vi phạm QTDND
Thực hiện Chỉ thị số 57-CT/TW ngày 10/10/2000 của Bộ Chính trị và Quyết định số 135/2000/QĐ-TTg ngày 28/11/2000 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt “Đề án củng cố, hoàn thiện và phát triển hệ thống QTDND”. Tính đến nay toàn hệ thống có gần 1.200 QTDND tại 56/63 tỉnh, thành phố với 2.831 xã, phường, thị trấn (chiếm 25,4% số xã, phường, thị trấn trên cả nước) và gần 2,1 triệu thành viên là các hộ gia đình chủ yếu ở khu vực nông nghiệp - nông thôn.
Trong thời gian qua, các hoạt động của QTDND đã có xu hướng xa rời mục tiêu hoạt động về tính liên kết hệ thống, tương trợ, hỗ trợ thành viên. Bên cạnh đó, còn một số lãnh đạo quỹ thiếu trách nhiệm hoặc năng lực quản lý điều hành yếu kém dẫn đến bị lợi dụng làm thất thoát tài sản. Điều này cho thấy hệ thống kiểm soát rủi ro tại các QTDND vốn đã yếu lại dễ dàng bị chi phối bởi các nhân viên và lãnh đạo Quỹ. Đáng chú ý hơn là đã có một số QTDND có tốc độ tăng trưởng nóng và có nguy cơ vượt ngoài tầm quản lý, kiểm soát.
Tình trạng nói trên cho thấy khả năng tự giám sát và việc giám sát từ bên ngoài đối với hoạt động của các QTDND còn thiếu hiệu quả, hệ thống kiểm soát rủi ro tại các QTDND vốn đã yếu lại càng dễ dàng bị chi phối bởi các cá nhân lãnh đạo quỹ dẫn đến nguy cơ rủi ro trong hoạt động của hệ thống QTDND.
Hạn chế trong kiểm tra, giám sát hoạt động QTDND
- Môi trường pháp lý cho hoạt động của các QTDND hiện nay chưa đầy đủ là nguyên nhân quan trọng góp phần gây ra nợ xấu, nợ quá hạn. Sự bất cập và chồng chéo của Luật khiến các cơ quan quản lý lúng túng trong việc xử lý tranh chấp về tài sản đảm bảo, các quy định về kế toán, kiểm toán chưa đủ sức mạnh thực hiện sẽ khiến số liệu không đủ cơ sở vững chắc để thẩm định cho vay.
- Về công tác tổ chức kiểm tra, kiểm soát: Công tác tổ chức kiểm tra, kiểm soát của các QTDND không thường xuyên, yếu kém và lỏng lẻo sẽ dẫn đến việc phát hiện và xử lý không kịp thời những trường hợp vi phạm, lợi dụng trong hoạt động cho vay và rủi ro trong hoạt động tín dụng là tất yếu. Hoạt động của QTDND chưa thực sự an toàn, tiềm ẩn nhiều rủi ro: Rủi ro về khả năng thanh toán, về lãi suất, tài sản… Điều này sẽ dẫn đến sự đổ vỡ của một số quỹ tín dụng và sẽ có nguy cơ phản ứng dây chuyền đến cả hệ thống quỹ tín dụng và hệ thống ngân hàng.
- Chất lượng cán bộ QTDND: Trình độ chuyên môn và năng lực quản lý của đội ngũ cán bộ của quỹ tín dụng đóng vai trò quan trọng không thể thiếu trong hoạt động của QTDND, đặc biệt cán bộ tín dụng phải có kiến thức cơ bản về tài chính, tiền tệ, tín dụng, quản trị, kinh nghiệm làm việc, khả năng phân tích, dự báo cũng như các quy định pháp luật liên quan đến hoạt động của QTDND…
Ngoài năng lực trình độ chuyên môn, hoạt động của tổ chức quỹ tín dụng có tốt hay không phần lớn phụ thuộc vào ý thức trách nhiệm và đạo đức của cán bộ, đây là tiêu chí quan trọng nhất góp phần đánh giá hoạt động của quỹ tín dụng có hiệu quả hay không.
- Các quy định pháp lý về loại hình pháp lý của Quỹ tín dụng Trung ương còn thiếu nhất quán, dẫn đến những bất cập trong quản lý và điều hành: Hiện nay tổ chức và hoạt động của Quỹ tín dụng Trung ương cũng theo nguyên tắc hợp tác xã, do đó thiếu tính nhất quán, cơ chế giám sát chưa chặt chẽ dẫn đến việc quản lý điều hành và kiểm soát còn nhiều bất cập, thậm chí còn lúng túng trong công tác điều hành hoạt động QTDND cơ sở.
- Việc giám sát của Ngân hàng Nhà nước đối với quỹ tín dụng: Đối với một tổ chức tín dụng hoạt động giám sát là rất cần thiết và quan trọng, việc tăng cường tính giám sát để ngăn chặn phòng ngừa những rủi ro. Hiện nay, hoạt động của Quỹ tín dụng Trung ương đều chịu sự giám sát của Ngân hàng Nhà nước, tuy nhiên tính giám sát của cơ quan quản lý và Ngân hàng Nhà nước trên địa bàn các tỉnh nói chung còn lỏng lẻo, chưa sát sao trong việc tham gia xử lý các QTDND yếu kém.
3. Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của QTDND
Để đảm bảo hệ thống QTDND hoạt động được lành mạnh hóa, cần có một số giải pháp như sau:
- Xây dựng hệ thống QTDND phù hợp với thực tiễn của Việt Nam:
Để hoạt động có hiệu quả và tồn tại lâu dài, trước hết hệ thống QTDND cần được xây dựng trên cơ sở xem xét các điều kiện về chính trị, kinh tế và xã hội, đảm bảo khả năng tạo điều kiện cho các QTDND cơ sở khắc phục được các khó khăn trong hoạt động, thiết lập các cơ chế đảm bảo cho các QTDND hoạt động an toàn, hiệu quả và phát triển bền vững, một trong những nguyên nhân tồn tại, yếu kém của các QTDND là do mô hình hệ thống QTDND chưa hoàn chỉnh.
- Cần phải xây dựng cơ chế quản lý phù hợp để phát huy được vai trò, trách nhiệm của các QTDND:
Một trong những yếu tố quyết định thành công của hệ thống QTDND là cần phải có các cơ chế, chính sách quản lý đầy đủ và đồng bộ, phù hợp với thực tiễn để đưa hoạt động của QTDND theo đúng quy định của pháp luật, thực hiện tốt mục tiêu, định hướng phát triển, phát huy vai trò và trách nhiệm của các QTDND.
- Nâng cao vai trò của Công ty kiểm toán QTDND:
Công ty kiểm toán QTDND cần thường xuyên đánh giá toàn diện các mặt hoạt động của QTDND về tài chính, tính hợp lý trong cơ cấu tổ chức, công tác quản trị, điều hành, kiểm soát, việc chấp hành pháp luật của QTDND; đảm bảo việc tuân thủ các nguyên tắc, mục tiêu hoạt động của QTDND; qua đó đưa ra hướng dẫn để các QTDND kịp thời chấn chỉnh các sai sót, khắc phục các yếu kém nhằm góp phần phòng ngừa và hạn chế các rủi ro, thiệt hại có thể xảy ra đối với từng QTDND và cả hệ thống QTDND.
- Nâng cao trách nhiệm, ý thức pháp luật của ban kiểm soát:
Theo quy định, ban kiểm soát phải kiểm tra và kiểm soát được hoạt động của hội đồng quản trị và ban điều hành, thực hiện chức năng giám sát, kiểm tra toàn bộ hoạt động của hội đồng quản trị, ban điều hành nhằm đảm bảo cho QTDND hoạt động đúng mục đích, tuân thủ các quy định của pháp luật, điều lệ, nghị quyết của hội đồng thành viên và của hội đồng quản trị.
- Thiết lập quỹ dự phòng khả năng chi trả nhằm đảm bảo khả năng thanh khoản:
Với quy mô hoạt động của hầu hết các QTDND cơ sở còn rất nhỏ bé, khả năng huy động vốn còn hạn chế. Trong khi đó, hệ thống QTDND chưa thiết lập được hệ thống thanh toán, các hoạt động giao dịch hầu như sử dụng hoàn toàn bằng tiền mặt. Do đó, việc bảo đảm khả năng thanh khoản là một trong những vấn đề hết sức quan trọng.
- Nâng cao hiệu quả hoạt động thanh tra, kiểm tra QTDND:
Thanh tra và kiểm tra là những chức năng thiết yếu của hoạt động quản lý. Hoạt động thanh tra, kiểm tra giúp cho các cơ quan quản lý nhà nước phát hiện ra các vụ việc vi phạm pháp luật và ngăn ngừa hành vi vi phạm của các tổ chức tín dụng. Bên cạnh việc thanh tra đảm bảo an toàn của hệ thống tín dụng, hoạt động thanh tra cũng cần phải đổi mới về tổ chức, phương thức kiểm tra. Đặc biệt đối với tổ chức quỹ tín dụng cần phải tổ chức và tăng cường hơn nữa hoạt động kiểm tra giám sát nội bộ để cảnh báo, ngăn ngừa tình trạng vi phạm pháp luật.
Để tham khảo thêm thông tin về vấn đề này, quý khách hàng có thể tìm hiểu tại bài viết: Quỹ tín dụng nhân dân có phải nộp lệ phí môn bài không ? của Luật Minh Khuê.
Như vậy trên đây là toàn bộ thông tin về Mức vốn pháp định áp dụng với Quỹ tín dụng nhân dân mà Công ty Luật Minh Khuê muốn gửi đến quý khách mang tính tham khảo. Nếu quý khách còn vướng mắc về vấn đề trên hoặc mọi vấn đề pháp lý khác, quý khách hãy vui lòng liên hệ trực tiếp với chúng tôi qua Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến theo số điện thoại 1900.6162 để được Luật sư tư vấn pháp luật trực tiếp qua tổng đài kịp thời hỗ trợ và giải đáp mọi thắc mắc.
Nếu quý khách cần báo giá dịch vụ pháp lý thì quý khách có thể gửi yêu cầu báo phí dịch vụ đến địa chỉ email: lienhe@luatminhkhue.vn để nhận được thông tin sớm nhất! Rất mong nhận được sự hợp tác và tin tưởng của quý khách! Luật Minh Khuê xin trân trọng cảm ơn!