I. Giới thiệu chung

Việc thực hiện các hiệp định/công ước quốc tế về môi trường cũng như áp dụng hệ thống tiêu chuẩn quốc tế về môi trường trong bối cảnh tự do hoá thương mại đã góp phần tích cực hạn chế ô nhiễm môi trường giữa các nước, khuyến khích sản xuất và trao đổi sản phẩm thân thiện với môi trường. Tuy nhiên, trong bối cảnh tự do hoá thương mại, khi các rào cản thương mại được loại bỏ, các tiêu chuẩn và quy định về môi trường, trong nhiều trường hợp, đã trở thành "hàng rào xanh" trong buôn bán quốc tế và ngày càng được áp dụng rộng rãi ở các nước phát triển. Trong điều kiện như vậy, việc đáp ứng các quy định và tiêu chuẩn quốc tế về môi trường trong buôn bán quốc tế hiện nay đang là thách thức to lớn đối với các nước kém phát triển, nơi đang thiếu nhiều điều kiện để thực hiện và áp dụng các hiệp định/công ước và tiêu chuẩn quốc tế về môi trường.

Chính vì vậy, trước nhu cầu tiếp tục cần có môi trường kinh tế quốc tế thuận lợi và năng động hỗ trợ hợp tác quốc tế, thực hiện các hành động cụ thể đã cam kết, chúng ta cần phải giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế, phát triển xã hội và BVMT- coi đây như là ba trụ cột của quá trình phát triển bền vững và chúng có sự phụ thuộc tương hỗ, củng cố lẫn nhau. Bản thân môi trường không thể tự bảo vệ chính mình trước những ảnh hưởng tiêu cực hết sức mạnh mẽ của các ngành thương mại không bền vững, việc sản xuất và tiêu thụ quá mức của con người, dân số gia tăng, phát triển công nghệ sản xuất không thân thiện với môi trường.

Xuất khẩu Việt Nam hiện nay đang là trụ cột chính của nền kinh tế. Trong những năm tới, đẩy mạnh xuất khẩu vẫn là định hướng chiến lược quan trọng của Việt Nam. Tuy nhiên, xuất khẩu hiện nay của ta chủ yếu vẫn dựa vào nhóm hàng có nguồn gốc thiên nhiên, giá trị gia tăng thấp, đòi hỏi của các nước nhập khẩu ngày càng cao về các tiêu chuẩn và quy định môi trường. Trong điều kiện như vậy, vấn đề đặt ra đối với Việt Nam là cần có chính sách thương mại và môi trường như thế nào để khai thác triệt để các lợi thế của tự do hoá thương mại, góp phần vượt qua các rào cản môi trường để mở đường cho hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam. Để làm được điều đó cần thiết phải nghiên cứu những tác động của hệ thống các quy định và tiêu chuẩn quốc tế về môi trường đối với cạnh tranh thương mại quốc tế của Việt Nam, xác định những hạn chế và khả năng đáp ứng các quy định và tiêu chuẩn môi trường của các doanh nghiệp trong nước để đẩy mạnh xuất khẩu, từ đó đưa ra những giải pháp và kiến nghị nâng cao khả năng đáp ứng các yêu cầu về môi trường, nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu Việt Nam nhằm tăng trưởng xuất khẩu và bảo vệ môi trường.

Nội dung báo cáo dưới đây gồm các vấn đề (i) Giới thiệu tổng quát về hệ thống quy định và tiêu chuẩn quốc tế về môi trường liên quan đến thương mại, (ii) Đánh giá khả năng đáp ứng các quy định và tiêu chuẩn về môi trường của một số mặt hàng xuất khẩu Việt Nam và (iii) Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao khả năng đáp ứng các quy định và tiêu chuẩn nói trên của hàng xuất khẩu Việt Nam.

>> Luật sư tư vấn luật thuế qua điện thoại gọi:  1900.6162

II. Hệ thống các quy định và tiêu chuẩn quốc tế về môi trường liên quan đến thương mại

Trong những năm gần đây, quan hệ chặt chẽ giữa thương mại và môi trường đã trở thành một vấn đề ngày càng quan trọng trong các mối quan hệ thương mại quốc tế. Nhận thức ngày càng tăng về sự cần thiết phải bảo vệ môi trường và thúc đẩy phát triển bền vững các nguồn lực sẵn có đã hình thành nên các biện pháp chính sách môi trường. Các biện pháp đó thường được các chính phủ thực thi thông qua các công cụ pháp lý hoặc các công cụ kinh tế. Các công cụ pháp lý được sử dụng như là các biện pháp kiểm soát và bắt buộc, bao gồm: Các tiêu chuẩn quy định những đặc tính của sản phẩm; Các quy định về các phương pháp sản xuất và chế biến (PPM) và các tiêu chuẩn về ô nhiễm; Cấm xuất nhập khẩu các mặt hàng độc hại hoặc gây nguy hại cho sức khoẻ; Hạn chế xuất nhập khẩu để bảo vệ và phát triển bền vững các nguồn tài nguyên thiên nhiên; Các yêu cầu về bao bì, đóng gói và nhãn mác. Các công cụ kinh tế bao gồm các khoản thuế đánh vào sản phẩm độc hại hoặc gây nguy hại cho sức khoẻ; phí đối với sản phẩm phế thải, các biện pháp kiểm soát dựa vào giá cả và trợ cấp môi trường.

Những biện pháp và chính sách môi trường đối với sản phẩm nêu trên được thể hiện một cách rõ nét trong các Hiệp định thương mại của Tổ chức thương mại thế giới (WTO), các công ước quốc tế về môi trường, các hiệp định thương mại và môi trường khu vực và song phương, các tiêu chuẩn về môi trường như ISO 14000, ISO 9000, HACCP… và những quy định cụ thể khác của các nước.

Các quy định môi trường trong các hiệp định của WTO: Các khía cạnh môi trường của các hiệp định của WTO được thể hiện tập trung nhất trong 5 hiệp định: Điều XX của GATT 1994; Hiệp định về rào cản kỹ thuật trong thương mại (TBT); Hiệp định về vệ sinh an toàn động thực vật (SPS); Hiệp định thương mại về các khía cạnh liên quan của quyền sở hữu trí tuệ (TRIPs); Hiệp định về các biện pháp trợ cấp và đền bù (SCM). Ngoài ra còn có một số nguyên tắc, điều khoản khác liên quan đến môi trường như nguyên tắc không phân biệt đối xử; điều khoản ngoại lệ chung trong thương mại dịch vụ GATs… Trong số những hiệp định nêu trên phải kể đến 3 hiệp định quan trọng liên quan đến các vấn đề môi trường đối với sản phẩm. Đó là Điều XX của GATT 1994; Hiệp định về rào cản kỹ thuật trong thương mại (TBT); Hiệp định về vệ sinh an toàn động thực vật (SPS). Các Hiệp định này đưa ra những quy định theo đó các sản phẩm xuất khẩu phải tuân thủ các yêu cầu về môi trường. Tuy nhiên, các Hiệp định nêu trên cũng yêu cầu việc áp dụng những quy định và tiêu chuẩn này không được tạo ra cản trở không cần thiết đối với thương mại quốc tế.

Các quy định môi trường liên quan đến thương mại trong các công ước quốc tế về môi trường:Cho đến thời điểm hiện nay đã có trên 140 các Hiệp định quốc tế về môi trường và các công cụ quốc tế về lĩnh vực môi trường. Trong số đó có khoảng 20 Hiệp định có các quy định liên quan đến thương mại quốc tế. Các biện pháp thương mại trong các hiệp định môi trường quốc tế được áp dụng đối với việc vận chuyển, buôn bán, trao đổi, khai thác các sản phẩm có ảnh hưởng đến môi trường như chất thải độc hại, động vật hoang dã, các nguồn gen thực động vật, các chất phá huỷ tầng ô zôn… Những vấn đề này tập trung chủ yếu trong một số hiệp định và công ước Quốc tế như Công ước Viên bảo vệ tầng ôzôn, Nghị định thư Montreal, Hiệp định về thay đổi khí hậu, Hiệp định về thương mại quốc tế đối với các loài có nguy cơ bị diệt chủng (CITES), Hiệp định Basel về quản lý vận chuyển các chất thải nguy hiểm, Công ước về đa dạng sinh học…

Một số tiêu chuẩn môi trường quốc tế liên quan đến thương mại: Trong số các tiêu chuẩn môi trường liên quan đến sản phẩm phải kể đến bộ tiêu chuẩn ISO 14000. Toàn bộ tiêu chuẩn ISO 14000 do 2 hệ thống tiêu chuẩn cấu thành, đó là hệ thống tiêu chuẩn áp dụng cho việc tổ chức và quản lý; hệ thống các tiêu chuẩn áp dụng đối với các sản phẩm hàng hoá và dịch vụ. Một nội dung đáng lưu ý của bộ tiêu chuẩn ISO 14000 trong mối quan hệ đối với thương mại là vấn đề nhãn môi trường. Đây là nội dung quan trọng nhất của ISO 14000 đối với các sản phẩm. Tiêu chuẩn này đòi hỏi sản phẩm được đưa ra thị trường phải an toàn đối với môi trường trong suốt toàn bộ "quá trình sống" của mình kể cả trước và sau quá trình sản xuất: từ khâu khai thác nguyên liệu đầu vào, quá trình sản xuất và chế biến, quá trình sử dụng và loại bỏ.

Bên cạnh tiêu chuẩn ISO 14000, trong thương mại quốc tế hiện nay các nước còn áp dụng một số tiêu chuẩn như HACCP (Kiểm soát điểm kiểm soát tới hạn). Đây là hệ thống tiêu chuẩn được các nước phát triển (Mỹ và EU) sử dụng để kiểm soát các chất độc tố trong thực phẩm, chủ yếu là thuỷ sản và thịt nhằm mục đích đảm bảo sự an toàn và thích hợp của thực phẩm trong tiêu dùng. Hệ thống HACCP đưa ra những nguyên tắc nhằm kiểm soát vệ sinh tại mỗi giai đoạn của dây chuyền chế biến thực phẩm, từ sản xuất ban đầu đến tiêu thụ cuối cùng, cho phép người sử dụng có thể tiếp cận đến các mối nguy hại và thiết lập các hệ thống kiểm soát tập trung vào phòng ngừa hơn là dựa vào thử nghiệm sản phẩm cuối cùng.

III. Đánh giá khả năng đáp ứng các quy định và tiêu chuẩn quốc tế về môi trường của một số mặt hàng xuất khẩu Việt Nam

1. Một số vấn đề môi trường đặt ra liên quan đến khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu Việt Nam

Xuất khẩu Việt Nam hiện nay là một trong những động lực chủ yếu của tăng trưởng kinh tế (chiếm gần 50% tổng GDP). Trong những năm tới, đẩy mạnh xuất khẩu vẫn là định hướng chiến lược quan trọng của Việt Nam. Tuy nhiên, xuất khẩu của nước ta hiện nay chủ yếu vẫn dựa vào nhóm hàng có nguồn gốc thiên nhiên, giá trị gia tăng thấp, đòi hỏi cao về các tiêu chuẩn và quy định môi trường. Thể hiện:

- Hàng xuất khẩu thô và sơ chế vẫn chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam (khoảng 60%). Đây là nhóm hàng có nguồn gốc đa dạng sinh học mà việc khai thác chế biến có nguy cơ ảnh hưởng đến môi trường, làm mất đi nguồn đa dạng sinh học, tài nguyên không tái tạo.

- Trong số các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam hiện nay thì đại bộ phận là các mặt hàng có nguồn gốc thiên nhiên như thuỷ sản, dầu thô, gạo, cà phê, rau quả mà việc khai thác, chế biến đang gặp phải các giới hạn về cơ cấu như năng suất, diện tích, khả năng khai thác đánh bắt và giới hạn về môi trường như làm thu hẹp diện tích rừng, cạn kiệt tài nguyên, ô nhiễm nguồn nước và đa dạng sinh học.

- Nhiều mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam hiện nay như gạo, đồ uống, cà phê, rau quả, thuỷ sản, khoáng sản… đang gặp phải những rào cản về môi trường rất lớn liên quan đến tiêu chuẩn của sản phẩm như tiêu chuẩn và quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm, quá trình chế biến, chất lượng hàng hoá, nhãn môi trường, bao bì đóng gói.

- Nhiều mặt hàng chế biến đang có kim ngạch ngày càng tăng như dệt may, giày da, nước giải khát, chế biến thuỷ sản… Tuy nhiên với công nghệ như hiện nay, trong tương lai Việt Nam có thể gặp phải những hạn chế về môi trường khi nhiều nước áp dụng tiêu chuẩn quá trình sản xuất và chế biến hoặc quy định đối với vòng đời sản phẩm.

- Thị trường xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam hiện nay cũng như trong tương lai là các thị trường có chất lượng môi trường rất cao, khách hàng rất quan tâm đến vấn đề sức khoẻ và an toàn (thị trường Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản, Singapore…). Do vậy, ngoài việc đảm bảo các tiêu chuẩn kỹ thuật, hàng hoá Việt Nam đang phải đối mặt với thách thức rất lớn để đáp ứng các yêu cầu môi trường trong việc tiếp cận các khu vực thị trường nói trên.

2. Khả năng đáp ứng các quy định và tiêu chuẩn quốc tế về môi trường của một số mặt hàng xuất khẩu Việt Nam

Hàng thuỷ hải sản: Thuỷ sản là một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam chiếm khoảng 11% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước với tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn 1997-2001 là 25%. Năm 2001 kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản đạt 1.760 triệu USD. Theo đánh giá của các nhà nghiên cứu đây là một trong những mặt hàng có khả năng cạnh tranh của Việt Nam hiện tại cũng như trong những năm tới. Theo dự báo của Bộ Thương mại, kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam sẽ đạt 2500 triệu USD năm 2005 và 3.500 triệu USD vào năm 2010.

Trong những năm qua, để đáp ứng các yêu cầu về vệ sinh và an toàn thực phẩm hải sản, ngành thuỷ sản đã áp dụng nhiều biện pháp để tăng sản lượng thuỷ sản xuất khẩu đạt tiêu chuẩn quốc tế. Trước năm 1994, Việt Nam chỉ đạt không quá 1,5% hàng thuỷ sản xuất khẩu vào thị trường EU. Đến nay Việt Nam đã lần lượt vượt qua 3 rào cản của EU. EU cũng đã công nhận Việt Nam đảm bảo độ tin cậy trong kiểm soát dư lượng đối với thuỷ sản nuôi (Quyết định 159-2/2000). Ngoài ra thuỷ sản của Việt Nam cũng được các thị trường khó tính khác như Nhật Bản, Hoa Kỳ, Australia chấp nhận. Tuy đã có nhiều cố gắng nhưng việc xuất khẩu hải sản của Việt Nam cũng đang gặp phải những khó khăn liên quan đến việc đáp ứng các yêu cầu về về sinh an toàn thực phẩm (VSATTP).

Theo báo cáo của Bộ Thuỷ sản, đến nay mới chỉ có 78/264 cơ sở chế biến thuỷ sản đ­ược Bộ Thuỷ sản công nhận đạt tiêu chuẩn ngành về điều kiện đảm bảo VSATTP, bao gồm các loại hình chế biến thuỷ sản đông lạnh, chế biến thuỷ sản khô, chế biến đồ hộp, chế biến nước mắm xuất khẩu. Chỉ số này cho thấy, còn đến 70,5% số cơ sở chưa đạt tiêu chuẩn đảm bảo VSATTP ngành thuỷ sản và còn 20% sản phẩm còn đang đ­ược sản xuất trong điều kiện không đạt tiêu chuẩn đảm bảo VSATTP (78/264 doanh nghiệp chiếm 80% l­ượng hàng xuất khẩu). Đối với các cơ sở chế biến đạt tiêu chuẩn đảm bảo VSATTP ngành thuỷ sản, việc áp dụng HACCP là nội dung bắt buộc. Tuy nhiên, việc áp dụng HACCP trong các cơ sở chế biến thuỷ sản xuất khẩu còn mang nặng tính hình thức, đối phó với các thị trường nhập khẩu, với cơ quan kiểm tra. Đa số các doanh nghiệp chưa quan tâm đầy đủ việc áp dụng thực sự HACCP tại cơ sở và thực sự coi HACCP là biện pháp hữu hiệu để quản lý chất lượng & VSATTP đối với sản phẩm do cơ sở sản xuất, từ đó dẫn đến nhiều lô hàng bị huỷ bỏ hoặc bị trả về do không đạt yêu cầu.

Có thể nhận thấy rằng, hàng thuỷ sản của ta đang gặp phải những rào cản môi trường rất lớn. Hơn nữa thị trường xuất khẩu chính lại là những thị trường có tiêu chuẩn rất nghiêm ngặt và có thể thay đổi theo hướng ngày càng nghiêm ngặt hơn. Khó khăn lớn nhất của Việt Nam là công nghệ chế biến và bảo quản sản phẩm thuỷ hải sản còn lạc hậu, do đó cần có sự đầu tư mạnh mẽ để đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, tổ chức lại khâu kiểm tra chất lượng nhằm đáp ứng yêu cầu của khách hàng nước ngoài.

Mặt hàng thịt: Thịt là một trong những mặt hàng xuất khẩu tiềm năng của Việt Nam. Trước những năm 90 thế kỷ 20, thịt lợn được xuất khẩu chủ yếu sang Liên Xô cũ và các nước Đông âu. Từ năm 1992 -1995 xuất khẩu thịt của ta gặp phải những trở ngại lớn về thị trường nên kim ngạch xuất khẩu không đáng kể. Những năm gần đây xuất khẩu thịt đã có những chuyển biến tích cực. Tuy nhiên so với sản lượng, tỷ trọng xuất khẩu của ta còn quá thấp. Hàng thịt xuất khẩu của Việt Nam mới tiếp cận được những thị trường có tiêu chuẩn VSATTP thấp. Thịt của ta chưa vào được các thị trường khó tính như EU, Nhật Bản, Hoa Kỳ. Lý do là thịt của ta chưa đáp ứng các tiêu chuẩn về vệ sinh an toàn thực phẩm của nước nhập khẩu. Chăn nuôi còn theo cách thủ công, không tuân thủ các quy định về chế độ ăn uống, chăm sóc y tế, khâu chế biến còn lạc hậu, hệ thống quy định về thú y chưa phù hợp với thông lệ quốc tế.

Một trong những tiêu chuẩn quan trọng nhất liên quan đến xuất khẩu thịt là HACCP. Đây là tiêu chuẩn bắt buộc đối với mặt hàng thịt. Theo báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, đến nay, chưa có một nhà máy nào của ta đ­ược cấp chứng chỉ về tiêu chuẩn VSATTP. Đây là nguyên nhân chính khiến thịt xuất khẩu thịt của ta vẫn chưa sang đ­ược các thị trường được coi là "khó tính" nh­ư Singapore, Nhật Bản, EU…

phê: Hiện nay, Việt Nam là nước xuất khẩu cà phê lớn thứ 4 trên thế giới và lớn thứ nhất trong khu vực. Cà phê được trồng ở Việt Nam chủ yếu trên cao nguyên và vùng núi Tây Nguyên, chiếm 80% tổng diện tích trồng cà phê.

Mặc dù hệ thống tiêu chuẩn của cà phê Việt Nam hiện nay tương đối hoàn chỉnh, nhưng chất lượng cà phê chưa cao do quá trình chăm sóc, thu hái, phơi, sấy, chế biến và đóng gói chưa tuân thủ nghiêm ngặt quy trình kỹ thuật và tiêu chuẩn chất lượng. Vệ sinh công nghiệp trong các xưởng chế biến còn yếu. Một vấn đề cần được quan tâm đặc biệt là độ ẩm của cà phê trong bảo quản, vận chuyển. Những rào cản môi trường có thể phải vượt qua đối với mặt hàng này là TBT, SPS, PPM…

Rau quả: Trong một vài năm trở lại đây, xuất khẩu rau quả của Việt Nam đã có những tiến bộ vượt bậc. Năm 2001 đạt 330 triệu USD (gấp 3,5 lần năm 1996), mức cao nhất từ trước đến nay. Tuy nhiên so với sản lượng thì tỷ trọng xuất khẩu hiện nay của ta chỉ chiếm khoảng 1% lượng rau quả thu hoạch. Lý do của tình trạng này là rau quả của Việt Nam chưa đảm bảo các yêu cầu về VSATTP do canh tác dàn trải, thiếu tập trung, quy trình trồng trọt, thu hoạch, bảo quản chế biến còn nhiều bất cập.

Hiện nay, rau quả của Việt Nam xuất khẩu chủ yếu sang Trung Quốc vì yêu cầu về các tiêu chuẩn môi trường, vệ sinh an toàn thực phẩm còn dễ dãi. Hàng rau quả xuất khẩu sang các thị trường như EU, Nhật Bản, Hoa Kỳ, úc còn rất hạn chế do ta không đáp ứng được các yêu cầu về VSATTP. Ngay cả ở thị trường trong nước nhu cầu về rau sạch cũng rất cao mà các nhà sản xuất cũng chưa đáp ứng kịp. Thách thức lớn nhất đối với mặt hàng này là đáp ứng các quy định của Hiệp định SPS.

Ngoài một số mặt hàng được coi là nhạy cảm với môi trường kể trên, một số mặt hàng khác như da giày, dệt may, gạo, thủ công mỹ nghệ cũng có thể gặp phải những rào cản môi trường như quy định về quá trình sản xuất và chế biến (PPM), TBT…

IV. Các giải pháp nâng cao khả năng đáp ứng các quy định và tiêu chuẩn quốc tế liên quan đến môi trường đối với một số mặt hàng xuất khẩu Việt Nam

1. Những giải pháp chung

1.1. Thay đổi các mẫu hình sản xuất và tiêu thụ không bền vững

- Khuyến khích và thúc đẩy các chương trình hành động nhằm cải thiện và nâng cao tính hiệu quả và bền vững trong việc sử dụng các nguồn lực và các quá trình sản xuất, giảm suy thoái tài nguyên, ô nhiễm và chất thải.

- Khuyến khích phát triển và phổ biến các hàng hoá và dịch vụ lành mạnh về môi trường.

Thương mại là cầu nối quá trình sản xuất và tiêu dùng. Những sản phẩm có đảm bảo về mặt môi trường, an toàn cho sức khoẻ người tiêu dùng, những sản phẩm dán nhãn sinh thái sẽ ngày càng được người tiêu dùng chọn lựa.

- Hoạt động thương mại trong việc chuyển giao công nghệ thân thiện với môi trường, thúc đẩy các mô hình thực tiễn tốt nhất, bí quyết công nghệ lành mạnh về môi trường giữa các tổ chức tư nhân và Nhà nước.

- Thúc đẩy hợp tác về thể chế cho các thoả thuận khu vực và quốc tế để thúc đẩy việc buôn bán năng lượng giữa các nước, bao gồm nguồn năng lượng có khả năng tái tạo và các công nghệ sạch hơn và tiên tiến.

- Thúc đẩy phương pháp tiếp cận tổng hợp đối với quá trình lập chính sách về các mạng lưới dịch vụ phân phối hàng hoá với quan điểm cung ứng đầy đủ và hiệu quả về mặt năng lượng, giảm ô nhiễm, giảm ảnh hưởng đến sức khoẻ.

- Phòng ngừa và giảm thiểu chất thải, tối đa hoá việc tái sử dụng các vật liệu thay thế thân thiện với môi trường nhằm giảm thiểu tác động tiêu cực đến môi trường và cải thiện hiệu quả tài nguyên với sự hỗ trợ tài chính và kỹ thuật.

- Thúc đẩy các nỗ lực ngăn ngừa buôn bán bất hợp pháp quốc tế các hoá chất và chất thải nguy hại, ngăn ngừa sự thiệt hại gây ra từ việc vận chuyển chất thải xuyên biên giới và thải bỏ chất thải nguy hại phù hợp với các ràng buộc theo các văn bản quốc tế như Công ước Basel về kiểm soát vận chuyển xuyên biên giới các chất thải nguy hại và việc loại bỏ các chất thải đó.

1.2. Bảo vệ và quản lý cơ sở tài nguyên thiên nhiên phục vụ phát triển kinh tế – xã hội

- Tăng cường ngăn ngừa ô nhiễm nguồn nước để giảm các nguy hại đối với các hệ sinh thái thông qua chuyển giao công nghệ xử lý nước thải hiệu quả.

- Bảo tồn và quản lý bền vững nguồn tài nguyên đất, nâng cao sinh kế bền vững.

- Nâng cao an toàn hàng hải và bảo vệ môi trường biển trước nguy cơ ô nhiễm.

- Thi hành luật về cấm buôn bán sản phẩm rừng bất hợp pháp trong nước và thương mại quốc tế, bao gồm nguồn đa dạng sinh học rừng với sự hỗ trợ của cộng đồng quốc tế và xây dựng các năng lực thể chế liên quan.

- Khai thác, khai khoáng và quặng thực sự quan trọng với sự phát triển kinh tế, tuy nhiên việc khai thác cho mục đích thương mại sẽ làm kiệt quệ nguồn tài nguyên này một cách nhanh chóng. Khuyến khích thực tiễn khai thác khoáng sản bền vững, cải tạo và phục hồi các khu vực suy thoái.

1.3. Phát triển bền vững trong một thế giới toàn cầu hoá

- Duy trì hệ thống thương mại và tài chính đa phương cởi mở, công bằng dựa trên cơ sở luật pháp và không phân biệt đối xử có lợi cho tất cả các quốc gia theo đuổi mục tiêu phát triển bền vững.

2. Các giải pháp ở cấp độ quốc gia

- Giáo dục ý thức cộng đồng và nâng cao nhận thức về môi trường đối với các cơ quan quản lý và doanh nghiệp: Mở các chiến dịch đào tạo và tuyên truyền về an toàn thực phẩm, phổ biến các quy định và tiêu chuẩn môi trường quốc tế cho các nhà quản lý và doanh nghiệp như các quy định liên quan đến môi trường của WTO(TBT, SPS, TRIPs…), ASEAN, các hiệp định môi trường đa biên có liên quan đến thương mại (CBD, CITES, công ước Basel…); các quy định và tiêu chuẩn môi trường của các nước và khu vực thị trường như Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản… để làm sao cho các doanh nghiệp thấy được tầm quan trọng của các quy định và tiêu chuẩn này khi xuất khẩu hàng hoá. Nâng cao nhận thức về các lợi ích mà việc đáp ứng các yêu cầu về môi trường mang lại cho quốc gia và doanh nghiệp. Mở các khoá đào tạo ngắn hạn cho các doanh nghiệp, các nhà quản lý về vấn đề bảo vệ môi trường, mối quan hệ giữa môi trường và phát triển bền vững. Các cơ quan chức năng cần phổ biến các thông tin về các tiêu chuẩn môi trường liên quan tới sản phẩm đồng thời giới thiệu các quy định và tiêu chuẩn môi trường của một số nước là bạn hàng của Việt Nam cho các doanh nghiệp.

- Xây dựng tiêu chuẩn quốc gia: Xây dựng hệ thống tiêu chuẩn quốc gia có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc thúc đẩy hoạt động của các doanh nghiệp đáp ứng các yêu cầu môi trường trong nước cũng như nâng cao sức cạnh tranh, uy tín doanh nghiệp khi tham gia hội nhập quốc tế. Một hệ thống tiêu chuẩn môi trường được xây dựng trên cơ sở khoa học, tuân thủ các chuẩn mực quốc tế, tính đến điều kiện đặc thù của các doanh nghiệp trong nước sẽ là công cụ hữu hiệu để quản lý môi trường, khuyến khích các doanh nghiệp áp dụng để hoạt động kinh doanh có hiệu quả và bảo vệ môi trường.

- Hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ: Doanh nghiệp vừa và nhỏ gặp rất nhiều khó khăn trong việc áp dụng các quy định và tiêu chuẩn môi trường do hạn chế về năng lực tài chính, khả năng chuyên môn. Các doanh nghiệp có thể nhận thức được rủi ro khi vươn ra thị trường ngoài nước nếu sản phẩm của họ không đáp ứng các yêu cầu về môi trường của nước nhập khẩu. Tuy nhiên hạn chế về các khả năng nêu trên khiến họ không thể khắc phục được những khó khăn mà thị trường đặt ra.

- Tham gia rà soát hiệp định, xây dựng tiêu chuẩn quốc tế và tận dụng quyền nhận xét các quy định và tiêu chuẩn quốc tế: Để đáp ứng đầy đủ các quy định và tiêu chuẩn sản phẩm của các nước xuất khẩu, kinh nghiệm quốc tế cho thấy các quốc gia cần tiến hành các biện pháp như rà soát lại Hiệp định, quy định, tiêu chuẩn có liên quan đến lĩnh vực kinh doanh của các doanh nghiệp trong nước, tham gia vào các hoạt động tiêu chuẩn quốc tế, tận dụng đầy đủ quyền nhận xét dự thảo các tiêu chuẩn và các quy định quốc tế thông qua các cơ quan liên quốc gia và các tổ chức quốc tế.

3. Ở cấp độ doanh nghiệp

- Đầu tư đổi mới công nghệ: Đổi mới công nghệ sản xuất là một trong những giải pháp quan trọng nhất để nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam hiện nay. Một mặt làm giảm giá thành sản xuất, mặt khác nâng cao chất lượng do đáp ứng được các tiêu chuẩn của nước nhập khẩu về bao bì đóng gói, an toàn vệ sinh, quy trình chế biến.

- Xây dựng chiến lược kinh doanh dài hạn có tính đến các tác động của các quy định tiêu chuẩn và quy định môi trường của sản phẩm: Trước hết, doanh nghiệp phải nhận thức được những cơ hội và thách thức trong quá trình hội nhập, đặc biệt là áp lực cạnh tranh ngày càng khốc liệt khi nước ta mở cửa thương mại, trước hết là đối với AFTA và thực hiện Hiệp định thương mại với Hoa Kỳ, trong đó có các áp lực phải tuân thủ các quy định và tiêu chuẩn về môi trường của sản phẩm. Hai là, để vượt qua các rào cản thương mại và môi trường quốc tế, doanh nghiệp cần có chiến lược về sản phẩm, khai thác có hiệu quả các lợi thế so sánh quốc gia trong lựa chọn sản phẩm kinh doanh, chú trọng đến khâu nghiên cứu và phát triển sản phẩm mới, hiện đại hoá khâu thiết kế sản phẩm, chọn lựa hệ thống quản lý chất lượng tiên tiến trên thế giới phù hợp với doanh nghiệp để nâng cao chất lượng sản phẩm.

- áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo ISO 9000, ISO 14000, HACCP…: Đối với doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là doanh nghiệp xuất khẩu các mặt hàng nhạy cảm đối với môi trường thì việc áp dụng các tiêu chuẩn trở thành bắt buộc, ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả kinh doanh của mình. Do vậy, không có cách nào khác là phải từng bước đáp ứng yêu cầu tiêu chuẩn của nước nhập khẩu. Sự sụt giảm kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam trong năm 2001 và 6 tháng đầu năm 2002 cho thấy là ngoài hạn chế về cơ cấu xuất khẩu hiện nay, nguyên nhân của tình trạng này còn do nhiều sản phẩm của ta không đáp ứng được yêu cầu tiêu chuẩn của nước nhập khẩu như rau quả, thuỷ sản, chè, thịt. Giá một số loại quả đặc sản Việt Nam như xoài, nhãn, vải… ở thị trường nội địa sụt giảm nghiêm trọng cho thấy ta còn thiếu các biện pháp đồng bộ hỗ trợ nông dân tiêu thụ sản phẩm, mà một trong số các biện pháp đó là đảm bảo tiêu chuẩn của hàng xuất khẩu.

- Đào tạo nguồn nhân lực: áp dụng các quy định và tiêu chuẩn quốc gia và quốc tế của sản phẩm liên quan đến môi trường doanh nghiệp cần có kế hoạch đào tạo nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn về môi trường. Tìm hiểu các quy định và tiêu chuẩn môi trường cũng như áp dụng chúng phải được coi là một hoạt động thường xuyên của doanh nghiệp nhất là đối với các doanh nghiệp phải đối mặt với các vấn đề môi trường trong tiêu thụ sản phẩm.

- Tăng cường công tác thông tin: Một trong những vấn đề chính mà các doanh nghiệp của những nước đang phát triển hay gặp phải trong việc đẩy mạnh xuất khẩu là việc thiếu thông tin về tiêu chuẩn và các biện pháp về sức khoẻ hay kiểm dịch áp dụng đối với sản phẩm của họ tại các thị trường trọng điểm. Khó khăn của doanh nghiệp Việt Nam hiện nay là hạn chế trong việc tiếp cận các nguồn thông tin thị trường, sản phẩm. Ngoài sự hỗ trợ thông tin của các cơ quan chức năng, các doanh nghiệp cần chủ động trong việc tiếp cận các nguồn thông tin thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, hệ thống truyền thông quốc tế, các tổ chức trong nước và quốc tế, các bạn hàng.

4. Ở cấp đa phương

- Công khai minh bạch và tham gia soạn thảo tiêu chuẩn. Các tổ chức tiêu chuẩn quốc tế, tổ chức thương mại quốc tế, các nước nhập khẩu hàng Việt Nam tạo các điều kiện thuận lợi để Việt Nam tiếp cận thông tin về quy định và tiêu chuẩn môi trường, tham gia vào quá trình xây dựng tiêu chuẩn quốc tế.

- Hỗ trợ kỹ thuật: Cần có sự chuyển giao công nghệ của các nước phát triển cho Việt Nam nhằm giúp các doanh nghiệp cải tiến chất lượng sản phẩm và nâng cấp các thiết bị kiểm tra chất lượng của mình, góp phần đáp ứng tốt hơn yêu cầu chất lượng ngày càng gia tăng của các nước nhập khẩu.

- Các cơ quan viện trợ đa phương có thể giúp Việt Nam thông qua các dự án về môi trường, các khoá đào tạo, tham gia các hội nghị quốc tế, giải quyết tranh chấp thương mại liên quan đến môi trường

- Thừa nhận lẫn nhau các thủ tục chứng nhận và đánh giá sự phù hợp. Các tổ chức và diễn đàn kinh tế quốc tế cần có các hoạt động thiết thực nhằm hài hoà các loại tiêu chuẩn khác của các nước nhập khẩu theo hệ thống tiêu chuẩn quốc tế, trên cơ sở đó các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp ở các nước đang phát triển có thể chuẩn mực hoá hệ thống sản xuất của mình theo tiêu chuẩn quốc tế, tránh việc chạy theo các loại tiêu chuẩn rất khác nhau, thậm chí chồng chéo mâu thuẫn của các nước nhập khẩu.

SOURCE: TS. BÙI HỮU ĐẠO – Vụ Khoa học – Bộ Thương mại

Trích dẫn từ: CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ BỘ CÔNG THƯƠNG – http://www.moit.gov.vn

(LUATMINHKHUE.VN: Bài viết được đăng tải nhằm mục đích giáo dục, phổ biến, tuyên truyền pháp luật và chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước không nhằm mục đích thương mại. Thông tin nêu trên chỉ có giá trị tham khảo và có thể một số thông tin pháp lý đã hết hiệu lực tại thời điểm  hiện tại vì vậy Quý khách khi đọc thông tin này cần tham khảo ý kiến luật sư, chuyên gia tư vấn trước khi áp dụng vào thực tế.)