Mục lục bài viết
1. Giới thiệu
Vậy văn hoá là gì? Đặc trưng cơ bản nhất của văn hoá là gì? Và hơn nữa cái gì làm nên bản sắc văn hoá của nhân dân ta?
2. Ngôn ngữ ảnh hưởng đến phong cách tư duy
Trước hết, con người khác muôn loài ở ngôn ngữ. Nhờ ngôn ngữ mà con người đã xây dựng nhiều nền văn minh trên trái đất này. Nhưng ngôn ngữ của mỗi dân tộc khác nhau. Điểm khác nhau cơ bản trong ngôn ngữ là ở cách dùng danh từ, tính từ và đại từ. Quả vậy, người Việt nói “áo trắng” nhưng người Tầu không nói vậy. Người Tầu nói “Bái Yfu” (Bạch y phục). Người Nga, Ý, Mỹ, Anh, Pháp, Arập, Nhật, Hàn,… nói giống người Tầu hết. Họ đặt tính từ lên trước danh từ. Trong mối quan hệ đại từ và danh từ cũng có sự trái ngược tương tự: người Việt nói “Đất nước tôi”, người Pháp nói “Mon pays” (của tôi đất nước). Khi học ngoại ngữ chúng ta phải tuân theo ngữ pháp của ngôn ngữ đó và nhận thấy cái sự ngược đời ấy là bình thường. Nhưng khi nhìn nhận ngôn ngữ theo vật lý học hoặc/và văn hoá học ta có thể phân tích sự ngược đời ấy dưới các góc độ khác.
Vật lý học là môn nghiên cứu sự vận động có hướng của các vật thể trong không thời gian. Còn văn hoá học là môn nghiên cứu sự vận động của các khái niệm trong tâm hồn con người. Do vậy, có thể kết hợp hai môn này trong việc phân tích thứ tự danh từ, đại từ, tính từ trong các ngôn ngữ.
Dân Việt khi nói bao giờ cũng đặt danh từ lên trước, rồi mới đến tính từ. Người Việt mình nói “trời xanh, mây trắng, cờ hồng”, chứ không nói “Blue sky, white cloud, red flag” (xanh trời, trắng mây, đỏ cờ). Dân ta, ngàn năm bị lệ thuộc Tầu, lại gần ngàn năm dùng chữ Tầu trong thi cử và giao dịch hành chính vẫn không nói theo người Tầu và các dân tộc khác. Cách nói đó có sức sống mãnh liệt và là một đặc trưng cơ bản nhất của ngôn ngữ Việt. Có lẽ cụ Phạm Quỳnh đã nhìn thấy cái sức sống mãnh liệt của ngôn ngữ Việt, nên ngay trong những năm dài mất nước cụ đã viết “Truyện Kiều còn, tiếng Việt còn, tiếng Việt còn, nước Nam còn".
Vậy tại sao dân Việt mình khi nói lại đặt danh từ lên trước như vậy? Ngôn ngữ được hình thành gắn liền với thông tin về hình ảnh, âm thanh, mầu sắc... Nếu ta trông thấy một cái gì đó dài dài, hơi tròn, lại rỗng ở giữa, ta bảo đó là cái ống. Danh từ “ống” được hình thành và lưu trữ trong óc với những thông tin về hình ảnh và cấu trúc. Nếu ta nhìn thấy cái gì đó có cấu trúc gần như thế, ta sẽ bảo đó là cái “ống” đã. Sau rồi ta mới tả các đặc trưng thực tại của nó về mầu sắc, về chất liệu. Cuối cùng ta có một cụm từ “cái ống xanh bằng nhựa”. Còn người nước khác, khi nhìn thấy cái ống sẽ làm văn tả cảnh thực tại. Họ nói mầu sắc, rồi cấu trúc, sau chất liệu thành ra cụm từ “a blue tube by plastic”.
Vậy cách nói của dân Việt là so sánh trước, miêu tả sau. Người Việt so sánh vật thể thực tại với những khái niệm có sẵn trong óc, sau đó bổ sung thêm các tính từ mô tả tính chất, trạng thái của đối tượng. Trong khi đó, dân Tầu, Nga, Mỹ, Pháp, Nhật,…sẽ mô tả tính chất, trạng thái của đối tượng trước, rồi dần dần mới lột tả vật thể bằng một danh từ. Do đó, đối với các ngôn ngữ khác, danh từ để sau (trong đa số trường hợp). Nhưng để so sánh thì khái niệm phải có sẵn trong óc. Do đó, trong quá trình hình thành các danh từ, khi học nói, học chuyên môn, người Việt đã xây dựng các khái niệm, rồi lưu trữ vào bộ óc. Đó là cách tư duy “tổng thể trước, chi tiết sau”. (Danh từ là từ để chỉ tổng thể của khái niệm. Tính từ là từ để chỉ trạng thái tính chất, tức là các chi tiết). Mặt tích cực của tư duy theo phong cách “tổng thể trước, chi tiết sau” là coi trọng cái thuộc tính chung, coi trong cấu trúc tổng. Nhưng mặt tiêu cực của phong cách tư duy đó là định kiến, bảo thủ. Ví dụ, khi nói đến cái bàn, mà không thêm tính từ mô tả bổ sung, thì phần lớn người Việt sẽ hình dung về một vật thể có 4 chân, bằng gỗ, phía trên có một hình chữ nhật phẳng. Họ ít khi nghĩ ngay đến cái gì ba chân, có mặt hình ô-van. Nhưng khi nói theo ngôn ngữ Mỹ, ta phải đặt tính từ ô-van và số chân lên trước rồi mới đến danh từ “cái bàn” ở vị trí cuối cùng. Như vậy ít khi hiểu sai ý của người đối thoại.
Từ những phân tích ở trên, ta thấy ngôn ngữ ảnh hưởng mãnh mẽ đến phong cách tư duy. Nó là công cụ quan trọng nhất để tư duy. Có hai cách tư duy: đặt tổng thể lên trước hoặc là đặt chi tiết lên trước.
3. Các cách tư duy
Nếu tư duy theo phong cách đặt chi tiết lên trước thì nhanh chóng tìm ra các thành tố, nhưng lâu đi đến khái niệm chung. Ngược lại, theo phong cách tư duy đặt tổng thể lên trước thì chóng tìm đến khái niệm, nhưng khái niệm lại có thể bị hiểu không nhất quán trong các bộ óc cá thể, như trường hợp thầy bói xem voi. Mỗi lối tư duy đều có điểm mạnh điểm yếu. Nhưng lối tư duy tổng thể khái niệm đặt trước, đôi lúc có thể đạt hiệu quả tập trung cực mạnh. Ví dụ, hồi thế kỷ 13, nếu bạn trông thấy trên cánh tay một thanh niên có chữ “Sát Thát”, thì chắc chắn bạn biết ngay đó là một chiến binh sẵn sàng hy sinh “vợ đẹp, con khôn, giọng hát hay, bầu rượu béo” quyết tâm đánh giặc Nguyên Mông. Hoặc hồi thế kỷ 20, đang đi trong rừng Trường Sơn mà gặp một cánh mũ “tai bèo” bạn cũng nghĩ như vậy. Mở rộng ra, cách nói, cách sử dụng ngôn ngữ theo kiểu “danh từ lên trước” là cách tư duy theo biểu tượng. Dân Việt Nam rất giỏi tư duy theo biểu tượng, bởi vì ngàn đời nay khi nói chúng ta đều đặt danh từ lên trước tính từ. Đó là di sản quý báu nhất của tổ tiên Lạc Hồng. Nếu xem ngôn ngữ là một cách sinh hoạt văn hoá, thì lối sinh hoạt văn hoá “danh từ trước tính từ” là một đặc điểm văn hoá qui báu nhất của dân tộc Việt nam. Tất nhiên, một số dân tộc khác cũng có lối sinh hoạt ấy. Ví dụ Thái Lan, Inđonesia, Ấn độ, nhưng thực tế các ngôn ngữ ấy đã biến thể theo các ngôn ngữ Á Âu khác đến 80% rồi. Có lẽ chỉ còn duy nhất dân Việt Nam là giữ được lối nói thuần Việt theo phong cách danh từ trước, tính từ sau. Mặc dù chúng ta du nhập nhiều từ tiếng Hán, tiếng Pháp, tiếng Anh,… nhưng khi vào tiếng Việt các danh từ ấy vẫn phải tuân theo qui tắc ngữ pháp Việt nam.
4. Phát huy ngôn ngữ Việt
Ngày nay, để phát huy di sản này chúng ta cần có biểu tượng cho mỗi công ty, xí nghiệp, mỗi trường học, mỗi tỉnh thành. Ví dụ, cán bộ và chiến sỹ công ty Viễn Thông quân đội Viettel có câu “Viettel, hãy nói theo cách của bạn”. Đó là một biểu tượng ngôn ngữ. Biểu tượng này, gắn liền với logo hai cánh cung đỏ xanh nằm ngang đã tạo nên sức mạnh hành động chung của Viettel. Sức mạnh ngôn ngữ (hay đúng hơn sức mạnh văn hoá) ấy đã biến Viêttel từ một công ty điện thoại nhỏ thành một tập đoàn viễn thông hùng mạnh trong vài ba năm.
Hiện nay, nhiệm vụ chính của nhân dân ta là chung sức xây dựng một xã hội phồn vinh và công bằng. Cần phải tạo ra biểu tượng ngôn ngữ, hay tạo ra khái niệm và danh từ cho công cuộc ấy. Sao cho mỗi khi nói ra mọi người cùng hiểu rõ, hiểu đúng toàn bộ nội dung của quá trình hành động chung. Biểu tượng ngôn ngữ ấy sẽ chảy trong huyết mạch Lạc Hồng và chẳng mấy dân ta, nước ta sẽ tiến lên đài vinh quang, dám sánh vai với bạn bè năm châu.
5. Mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa
Khi bạn học một ngôn ngữ mới, nó không chỉ liên quan đến việc học bảng chữ cái, sắp xếp từ và các quy tắc ngữ pháp, mà còn học về phong tục và hành vi của xã hội cụ thể. Khi học hoặc dạy một ngôn ngữ, điều quan trọng là văn hóa nơi ngôn ngữ thuộc về nó được tham chiếu, bởi vì ngôn ngữ bám sâu vào văn hóa.
Cụm từ, ngôn ngữ là văn hóa và văn hóa là ngôn ngữ thường được đề cập khi ngôn ngữ và văn hóa được thảo luận. Đó là bởi vì cả hai có một mối quan hệ tương đồng mặc dù phức tạp. Ngôn ngữ và văn hóa phát triển cùng nhau và ảnh hưởng lẫn nhau khi chúng phát triển. Sử dụng bối cảnh này, Alfred L. Krober, một nhà nhân chủng học văn hóa đến từ Hoa Kỳ nói rằng nền văn hóa bắt đầu từ khi ngôn ngữ của một dân tộc xuất hiện và từ đó, sự phát triển của một trong hai yếu tó đã dẫn dắt cái còn lại phát triển hơn nữa.
Nếu văn hóa là kết quả của sự tương tác của con người, các hành vi giao tiếp là biểu hiện văn hóa của họ trong một cộng đồng cụ thể. Ferruccio Rossi-Landi, một nhà triết học đến từ Ý có công việc tập trung vào triết học, ngữ học và ngôn ngữ học nói rằng cộng đồng nói được tạo thành từ tất cả các thông điệp được trao đổi với nhau bằng một ngôn ngữ nhất định, được hiểu bởi toàn xã hội. Rossi-Landi nói thêm rằng trẻ nhỏ học ngôn ngữ và văn hóa của chúng từ xã hội chúng được sinh ra. Trong quá trình học, chúng cũng phát triển khả năng nhận thức của chúng.
Theo giáo sư Michael Silverstein, người dạy tâm lý học, ngôn ngữ học và nhân học tại Đại học Chicago, áp lực giao tiếp của văn hóa đại diện cho các khía cạnh của thực tế cũng như kết nối các bối cảnh khác nhau. Nó có nghĩa là việc sử dụng các biểu tượng đại diện cho các sự kiện, danh tính, cảm xúc và niềm tin cũng là phương pháp đưa những điều này vào bối cảnh hiện tại.
LUẬT MINH KHUÊ (Sưu tầm & Biên tập)