Mục lục bài viết
- 1. Tìm hiểu về quy định cấp dưỡng trước đây
- 2. Các trường hợp cấp dưỡng
- 2.1 Nghĩa vụ cấp dưỡng giữa cha mẹ và con
- 2.2 Nghĩa vụ cấp dưỡng giữa anh, chị, em
- 2.3 Nghĩa vụ cấp dưỡng giữa ông bà nội, ông bà ngoại và cháu
- 2.4 Nghĩa vụ cấp dưỡng giữa cô, dì, chú, bác, cậu ruột và cháu
- 2.5 Nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ và chồng khi ly hôn
- 3. Mức cấp dưỡng và phương thức cấp dưỡng
- 4. Về án phí cấp dưỡng
- 5. Về hành vi từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng
- 6. Về chấm dứt nghĩa vụ cấp dưỡng
Quan hệ hôn nhân hoặc có nghĩa vụ phải nuôi dưỡng trong trường hợp những người đó là người chưa thành niên hoặc đã thành niên nhưng không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi Sống bản thân, những người mà pháp luật xác định là gặp khó khăn, túng thiếu.
1. Tìm hiểu về quy định cấp dưỡng trước đây
Quy định về cấp dưỡng và người cấp dưỡng đã được đề cập từ lâu trong pháp luật dân sự Việt Nam, Theo Điều 144, Điều 145 Bộ dân luật Bắc Kỳ năm 1931 và Điều 142, Điều 143 Hoàng Việt Trung Kỳ hộ luật năm 1936 thì khi giải quyết việc li hôn, Toà án có thể quyết định về số tiền cấp dưỡng mà người chồng phải trả cho người vợ bất kể duyên cớ li nôn là do vợ hoặc chồng. Việc cấp dưỡng sẽ chấm dứt khi người vợ tái giá...
Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam hiện đại cũng có quy định về cấp dưỡng ở Điều 30 Luật hôn nhân và gia đình năm 1959 và Điều 43 Luật hôn nhân và gia đình năm 1986. Theo các quy định này, người cấp dưỡng là người vợ hay là người chồng tuỳ theo khả năng của mình có nghĩa vụ cấp dưỡng cho phía bên kia trong trường hợp họ gặp khó khăn, túng thiếu, yêu cầu cấp dưỡng khi li hôn. Nghĩa vụ cấp dưỡng sẽ chấm dứt khi người được cấp dưỡng đi lấy chồng hoặc lấy vợ mới.
Về bản chất, cấp dưỡng thể hiện sự tương thân, tương ái, giúp đỡ lẫn nhau giữa hai bên vợ, chồng khi đã li hôn mà một bên gặp khó khăn túng thiếu. Dựa trên quan điểm này, Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 đã mở rộng phạm vi chủ thể là người cấp dưỡng, nhằm khuyến khích các thế hệ trong gia đình có trách nhiệm chăm sóc, giúp đỡ lẫn nhau khi gặp hoàn cảnh khó khăn hoặc không thể tự nuôi sống bản thân mình. Cấp dưỡng được xây dựng thành một chế định hoàn chỉnh, quy định tại Chương VI (từ Điều 50 đến Điều 62). Theo các quy định của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000, người cấp dưỡng không chỉ là người vợ hoặc người chồng khi vợ chồng li hôn có nghĩa vụ cấp dưỡng cho nhau theo khả năng của mình trong trường hợp bên kia khó khăn yêu cầu cấp dưỡng, mà nghĩa vụ cấp dưỡng có thể phát sinh giữa cha, me và con; giữa anh chị em với nhau; giữa vợ và chồng; giữa người có nghĩa vụ nuôi dưỡng và người được nuôi dưỡng… Những người có nghĩa vụ nuôi dưỡng mà trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng thì pháp luật buộc họ phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng.
2. Các trường hợp cấp dưỡng
2.1 Nghĩa vụ cấp dưỡng giữa cha mẹ và con
- Nghĩa vụ cấp dưỡng của cha mẹ đổi với con
Theo Điều 110 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 thì cha, mẹ có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con chưa thành niên, con đã thành niên không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình trong trường hợp không sống chung với con hoặc sống chung với con nhưng vi phạm nghĩa vụ nuôi dưỡng con.
Như vậy, cha, mẹ không chỉ cấp dưỡng cho con khi ly hôn mà còn cấp dưỡng cho con cả trong thời kỳ hôn nhân nếu cha, mẹ không sống chung với con hoặc trốn tránh thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng con.
Đối với trường hợp cha, mẹ có con ngoài giá thú mà không sống cùng con thì cũng phải cấp dưỡng cho con.
- Nghĩa vụ cấp dưỡng của con đoi với cha, mẹ
Theo pháp luật hiện hành, khi cha mẹ không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình thì con phải cấp dưỡng cho cha, mẹ trong trường hợp không sống chung với cha, mẹ (như con đã kết hôn và được cha mẹ cho ở riêng, con đi làm ăn xa...) hoặc trường hợp con trốn tránh thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng cha, mẹ.
2.2 Nghĩa vụ cấp dưỡng giữa anh, chị, em
Nghĩa vụ cấp dưỡng giữa anh, chị, em với nhau phát sinh khi:
- Không còn cha mẹ hoặc cha mẹ không có khả năng lao động và không có tài sản để cấp dưỡng cho con;
- Trong số anh, chị, em có người chưa thành niên và không có tài sản để tự nuôi mình hoặc có người đã thành niên nhưng không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.
2.3 Nghĩa vụ cấp dưỡng giữa ông bà nội, ông bà ngoại và cháu
- Nghĩa vụ cấp dưỡng của ông bà nội, ông bà ngoại đoi với cháu
Ông bà nội, ông bà ngoại cấp dưỡng cho cháu khi:
+ Cháu chưa thành niên hoặc đã thành niên không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình;
+ Cháu không còn cha mẹ, không có anh, chị, em hoặc tuy còn cha mẹ và có anh, chị, em nhưng những người này không có khả năng để nuôi dưỡng hoặc cấp dưỡng cho cháu.
Về nguyên tắc, ông bà nội và ông bà ngoại có nghĩa vụ cấp dưỡng cho cháu như nhau. Do vậy, ông bà nội, ông bà ngoại thoả thuận với nhau về mức cấp dưỡng và phương thức thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng sao cho phù hợp với thu nhập, khả năng thực tế của ông bà và phù hợp với nhu cầu thiết yếu của cháu. Nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Toà án giải quyết.
- Nghĩa vụ cấp dưỡng cùa cháu đối với ông bà nội, ông bà ngoại
Cháu cấp dưỡng cho ông bà nội, ông bà ngoại khi:
+ Ông bà nội, ông bà ngoại không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình;
+ Ông bà không còn con, không có anh, chị, em hoặc tuy còn con và có anh, chị, em nhưng những người này không có khả năng để nuôi dường hoặc cấp dưỡng cho ông bà.
Cháu nội, cháu ngoại có nghĩa vụ cấp dưỡng cho ông bà nội, ông bà ngoại như nhau. Do đó, các cháu nội, cháu ngoại thỏa thuận với nhau về mức cấp dưỡng và phương thức thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng sao cho phù hợp với thu nhập, khả năng thực tế của mỗi người và phù hợp với nhu cầu thiết yếu của ông bà nội, ông bà ngoại. Nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Toà án giải quyết.
2.4 Nghĩa vụ cấp dưỡng giữa cô, dì, chú, bác, cậu ruột và cháu
- Cô, dì, chú, cậu, bác ruột không sống chung với cháu ruột có nghĩa vụ cấp dưỡng cho cháu trong trường hợp cháu chưa thành niên hoặc cháu đã thành niên không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình mà không có người khác cấp dưỡng. Như vậy, khi cháu không còn cha, mẹ, anh, chị, em, ông, bà để nuôi dưỡng hoặc cấp dưỡng thì cô, dì, chú, bác, cậu ruột mới phải cấp dưỡng cho cháu.
- Cháu đã thành niên không sống chung với cô, dì, chú, cậu, bác ruột có nghĩa vụ cấp dưỡng cho cô, dì, chú, cậu, bác. ruột trong trường hợp người cần được cấp dưỡng không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình mà không có người khác cấp dưỡng.
Nghĩa vụ cấp dưỡng của cháu ruột đối với cô, dì, chú, bác, cậu ruột xếp sau nghĩa vụ cấp dưỡng của con đối với cha mẹ, của cháu đối với ông bà, của anh, chị, em với nhau.
2.5 Nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ và chồng khi ly hôn
Khi ly hôn, nếu một bên khó khăn, túng thiếu, có yêu cầu và bên kia có khả năng để cấp dưỡng thì giữa vợ chồng phát sinh nghĩa vụ cấp dưỡng.
Người có khó khăn, túng thiếu phải do tình trạng sức khỏe hoặc các yếu tố khách quan khác mà không thể lao động được thì mới có quyền được cấp dưỡng.
3. Mức cấp dưỡng và phương thức cấp dưỡng
Luật pháp cũng quy định rất rõ về mức và phương thức cấp dưỡng như sau:
Về mức cấp dưỡng: Mức cấp dưỡng do người có nghĩa vụ cấp dưỡng và người được cấp dưỡng hoặc người giám hộ của người đó thỏa thuận căn cứ vào thu nhập, khả năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng và nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết. Khi có lý do chính đáng, mức cấp dưỡng có thể thay đổi. Việc thay đổi mức cấp dưỡng do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết (Điều 116 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014).
Về phương thức cấp dưỡng: Việc cấp dưỡng có thể được thực hiện định kỳ hàng tháng, hàng quý, nửa năm, hàng năm hoặc một lần.
Các bên có thể thỏa thuận thay đổi phương thức cấp dưỡng, tạm ngừng cấp dưỡng trong trường hợp người có nghĩa vụ cấp dưỡng lâm vào tình trạng khó khăn về kinh tế mà không có khả năng thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết.
Trong trường hợp một người có nghĩa vụ cấp dưỡng cho nhiều người thì người cấp dưỡng và những người được cấp dưỡng thỏa thuận với nhau về phương thức và mức cấp dưỡng phù hợp với thu nhập, khả năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng và nhu cầu thiết yếu của những người được cấp dưỡng; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết.
Trong trường hợp nhiều người cùng có nghĩa vụ cấp dưỡng cho một người hoặc cho nhiều người thì những người này thỏa thuận với nhau về phương thức và mức đóng góp phù hợp với thu nhập, khả năng thực tế của mỗi người và nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết.
Trong các vụ án hình sự mà có người bị hại chết thì bị cáo còn có trách nhiệm bồi thường khoản tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng.
4. Về án phí cấp dưỡng
Cấp dưỡng nuôi con là một trong những trường hợp xảy ra tranh chấp nhiều nhất tại tòa án. Tranh chấp này thường xuất hiện trong những vụ án ly hôn. Theo quy định người yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp về cấp dưỡng không phải nộp tiền tạm ứng án phí nhưng người có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con thì phải chịu án phí. Người yêu cầu cấp dưỡng cho con (người trực tiếp nuôi con) không phải chịu án phí.
5. Về hành vi từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng
Không phải ai nằm trong trường hợp được nghĩa vụ cấp dưỡng cũng sẵn lòng để thực hiện nghĩa vụ của mình. Thế nên, pháp luật cũng đã dự liệu được trường hợp này. Bằng cách quy định như sau: Trong trường hợp người có nghĩa vụ nuôi dưỡng trốn tránh nghĩa vụ thì theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức, Tòa án buộc người đó phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng. Người có quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng theo bao gồm: Người được cấp dưỡng, cha, mẹ hoặc người giám hộ của người đó; Người thân thích; Cơ quan quản lý nhà nước về gia đình; Cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em; Hội liên hiệp phụ nữ.
Ngoài ra, người trốn tránh này sẽ phải chịu sự chế tài của cơ quan Nhà nước. Cụ thể như sau, theo quy định của pháp luật, người có nghĩa vụ cấp dưỡng mà trốn tránh hoặc từ chối nghĩa vụ cấp dưỡng thì sẽ bị xử phạt vi phạm hành chính từ 100.000 đồng đến 300.000 đồng hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Theo đó:
– Điều 54 Nghị định số 167/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng cháy và chữa cháy; phòng, chống bạo lực gia đình. Cũng như quy định tại Điều 186 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định “Tội từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng” như sau: “Người nào có nghĩa vụ cấp dưỡng và có khả năng thực tế để thực hiện việc cấp dưỡng đối với người mà mình có nghĩa vụ cấp dưỡng theo quy định của pháp luật mà từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng, làm cho người được cấp dưỡng lâm vào tình trạng nguy hiểm đến tính mạng, sức khỏe hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính về một trong các hành vi quy định tại Điều này mà còn vi phạm, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 380 của Bộ luật này, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.”
Như vậy, nếu trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng thì người trốn tránh có thể bị phạt không những hành chính mà còn bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Nên người có nghĩa vụ phải thực hiện nghiêm túc nghĩa vụ của mình.
6. Về chấm dứt nghĩa vụ cấp dưỡng
Pháp luật cũng quy định rất rõ về các trường hợp được phép chấm dứt nghĩa vụ cấp dưỡng như sau:
Nghĩa vụ cấp dưỡng giữa cha, mẹ và con; giữa anh, chị, em với nhau; giữa ông bà nội, ông bà ngoại và cháu; giữa cô, dì, chú, cậu, bác ruột và cháu ruột; giữa vợ và chồng sẽ chấm dứt trong các trường hợp được quy định tại Điều 118 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Các trường hợp cụ thể như sau:
– Người được cấp dưỡng đã thành niên và có khả năng lao động hoặc có tài sản để tự nuôi mình;
– Người được cấp dưỡng được nhận làm con nuôi;
– Người cấp dưỡng đã trực tiếp nuôi dưỡng người được cấp dưỡng;
– Người cấp dưỡng hoặc người được cấp dưỡng chết;
– Bên được cấp dưỡng sau khi ly hôn đã kết hôn; và
– Trường hợp khác theo quy định của luật.
Mọi vướng mắc pháp lý liên quan đến pháp luật hôn nhân gia đình về nghĩa vụ cấp dưỡng, Hãy gọi ngay: 1900.6162 để được Luật sư tư vấn pháp luật hôn nhân trực tuyến.
Trân trọng./.
Bộ phận tư vấn pháp luật hôn nhân - Công ty luật Minh Khuê